(Trich dẫn từ trang 60 đến trang 70
quyển Tử-vi & Địa-Lý
Thực-hành của Hàn Lâm Nguyễn
Phú
Thứ )
Thuở xa xưa, những bậc tiền nhân thường
dùng Thập Nhị Địa Chi tức12 con Giáp
để gọi cho Năm, Tháng, Ngày, Giờ. Số
12 con Giáp tức 12 con vật tượng trưng
đó được sắp theo thứ tự như sau : Tý
(Chuột), Sửu (Trâu), Dần (Cọp), Mão hay
Mẹo (Mèo), Thìn (Rồng), Tỵ (Rắn), Ngọ
(Ngựa), Mùi (Dê), Thân (Khỉ), Dậu
(Gà), Tuất (Chó) và Hợi (Heo). Ngoài
ra, phương cách dùng để tính
các tháng theo con Giáp
thì : GIÊNG (Dần = Cọp), HAI
(Mão hay Mẹo = Mèo, BA (Thìn =
Rồng), TƯ (Tỵ = Rắn), NĂM (Ngọ = Ngựa), SÁU
(Mùi = Dê), BẢY (Thân = Khỉ),
TÁM (Dậu = Gà), CHÍN (Tuất =
Chó), Mười ( Hợi = Heo), Mười Một (Tý
= Chuột) và Chạp (Sửu =Trâu).
Nhưng tại sao, thời kỳ xa xưa đó lại
đặt tháng Giêng là tháng
đầu năm mà không gọi là
tháng Một?
Theo thiển nghĩ của tôi, bởi vì
lúc bấy giờ, dưới thời quân chủ
còn Vua Chúa, thường dành con
số Một để chỉ nhà Vua, là thiên
tử (con trời) để cai trị dân chúng tức
nhứt nhân (người đứng đầu, người lớn hơn hết),
từ đó trong thiên hạ phải kiêng
cử, cho nên mới đặt tháng Giêng?
Ngoài ra, khi sanh con đẻ cái cũng
không thể gọi con đầu lòng là
con Một mà chỉ gọi là con Trưởng hay
con Hai hoẵc con Cả, vì sợ húy kỵ đến
nhà vua, bằng chứng ở Việt Nam không
có nhà nào gọi con đầu
lòng là con Một là thế
đó !.
Còn tháng Giêng tại
sao là Tháng Dần ?
Căn cứ theo sách xưa, xin trích
dẫn như sau :
Nhân
sinh ư Dần 人生于寅
(Loại người sanh ra ở hội Dần).
Nhứt niên chi kế
tại ư Xuân一年之计在于春
(Kế hoạch trong 1 năm phải được sắp đặt ở
mùa Xuân).
Nhứt nhựt chi
kế tại ư Dần 一日之计子于寅
(Kế hoạch trong 1 ngày phải sắp đặt
ở giờ Dần).
Hơn nữa, trong 12 con Giáp, con Cọp
là chúa sơn lâm, rất mạnh bạo
hơn 11 con Giáp kia, cho nên người xưa
chọn tháng Giêng là tháng
Dần cho con Cọp cầm tinh là như thế?
Người xưa, tại sao tháng gọi
tháng Chạp là tháng cuối năm
mà không là tháng Mười
Hai như năm Dương Lịch?
Theo thiển nghĩ của tôi, nước
chúng ta thời bấy giờ phần đông
làm ruộng, cho nên tháng cuối
cùng của một năm, ruộng đã làm
xong, đã đem lúa vô bồ,
vì thế phần đông dành thời gian
này lo các lễ cúng, tiệc
tùng để tạ ơn Thần Nông hoặc
cúng Đình Thần sau khi vụ mùa
đã hoàn tất, hết nhà này
đến nhà khác, có khi kéo
dài cho đến Tết Nguyên Đán.
Hơn nữa, chữ Chạp là lễ cúng.
Vì thế, nó còn có
các tên lễ cúng khác như
: Giỗ Chạp, Chạp Miếu, Chạp Mả...
Do vậy, thay vì gọi tháng Mười
Hai là tháng Chạp là thế
đó !.
< Khi nhắc đến Lễ Cúng Đình Thần,
hằng năm thường cử hành lễ này (được
biết ngày xưa các vị cựu quan chức
ngày xưa, đơn cử như : Cụ Nguyễn Trung Trực
(Rạch Giá) là người có
công trạng chống Pháp, nên sau
khi Cụ bị quân Pháp chặt đầu, Cụ được
vua ban Sắc Chỉ Thần và được thờ tại
Đình Thần Nguyễn Trung Trực
Rạch Giá ngày nay, nếu cần xin xem
quyển Danh Nhân Việt Nam hậu bán
thế kỷ 19 cùng tác giả Nguyễn
Phú Thứ từ trang 161 đến trang 195) trong
các ngày Lễ Cúng Đình
Thần, các vị bô lão cùng
Ban Hội Tề mặc áo dài khăn đóng
để đi rước sắc thần, (nếu làng xã
đó chưa hoàn thành Đình
Thần, để an vị nơi làm lễ cúng Thần),
đặc biệt phải có các học trò lễ
đứng hai hàng để : dâng hương,
dâng trà, dâng rượu...và
lễ bái (lạy) >.
Ngoài ra, phải nói đến
Hát Bộ (có người gọi Hát Bội)
để cúng Thần, thông thường Ông
Hương Cả trong làng
là người đứng đầu chủ xướng lễ cúng
Đình và là người có thực
quyền hơn hết, cho nên mỗi lần có
gánh hát về hát cúng
Đình, Ông Hương Cả
chính là người Cầm Chầu để đánh
những hồi trống chầu thưởng phạt cho nghệ sĩ, bởi
vì Ông Hương Cả
là bực thâm nho lại rất rành
tuồng tích, kể cả cách dặm mặt
và các câu hát tuồng
tích của các nghệ sĩ, cho nên Ông
Hương Cả cầm chầu để khen thưởng
hoặc bắt lỗi các đào kép trong
lúc trình diễn, vì các
nghệ sĩ không thuộc tuồng hát cương,
cho nên không thể bắt một người
nào đó đến cầm chầu mà
không rành tuồng tích.
Thời xưa, các nghệ sĩ nào được
Ông Hương Cả
đánh nhiều hồi trống chầu, thì sau khi
hát xong, sẽ được Ban Hội Tề (*) thưởng phẩm
vật tặng riêng cho cá nhân nghệ
sĩ đó.
Còn trái lại, các nghệ
sĩ nào bị Ông
Hương Cả đánh Khắc
là gõ bên vành trống
kêu cắc cắc thì các nghệ sĩ
đó bị Ông Hương Cả
phạt vì hát sai, hát cương, để
nghệ sĩ biết thân mà hát lại cho
đúng và nghệ sĩ nào bị
đánh khắc nhiều lần, sau khi hát xong
sẽ bị Ban Hội Tề cùng Ông Bầu
đoàn hát quở phạt. Đó
là, luật lệ thưởng phạt công minh của
người Cầm Chầu đối với nghệ sĩ.
Mặc dù, Ông
Hương Cả là người
có thực quyền ở trong làng, nhưng
những hồi trống chầu đôi khi cũng không
hài lòng hết mọi người, cho nên
cũng bị chê trách như thường.
Vì thế, trong dân gian mới có
câu :
Ở đời có bốn cái ngu,
Làm mai, lãnh nợ gác cu, cầm
chầu.
(*) Được biết, thời xưa Ban Hội Tề trong
làng có 12 vị Hương Chức như sau :
Hương Cả, Hương Chủ, Hương Sư, Hương Trưởng, Hương
Chánh, Hương Giáo, Hương Bộ, Hương
Quản, Hương Thân, Hương Hào, Xã
Trưởng là người có bổn phận giữ con
dấu để thâu thuế Điền, thuế Thân trong
làng và Chánh Lục Bộ là
người có bổn phận giữ Sổ Bộ Đời như : Khai
Sanh, Khai Tử, Hôn Thú ...)
Đêm Năm Canh, Ngày
Sáu Khắc
Được biết, niên lịch cổ truyền Á
Đông đã xuất hiện từ đời Hoàng
Đế bên Tàu, 2637 trước Thiên
Chúa năm 61.
Còn đối với : Đêm Nam Canh,
Ngày Sáu Khắc như thế nào ?.
Chúng ta để ý sẽ thấy :
Ngày tính Khắc, Đêm tính
Canh, cho nên chúng ta đã từng
nghe thấy như sau :
Canh Một dọn cửa, dọn nhà
Canh Hai dệt cửi, canh Ba Đi nằm...
Hoặc là : Nửa đêm giờ Tý canh Ba
Theo thiển nghĩ, chúng ta thấy câu :
Nửa đêm giờ Tý canh Ba
thì chúng ta có thể đoán
được chữ nửa đêm (tức khoảng 12 giờ đêm
hoặc 0 giờ), còn giờ Tý canh Ba (tức
khoảng 23 giờ đêm đến 1 giờ sáng). Bởi
vì, các bậc tiền nhân
dùng 12 con vật cầm tinh tuợng trưng tức12
con Giáp, để phân chia bảng Giờ trong
một ngày có 24 giờ như sau :
Bảng giờtrong
1 ngày cûa 12 con giáp
Giờ
Thời Gian
Giờ
Thời Gian
Tý
Từ 23 giờ đến 1 giờ sáng
Ngọ
Từ11 giờ đến 13giờ trưa
Sửu
Từ 1 giờ đến
3 giờ sáng
Mùi
Từ 13 giờ đến15 giờ xế trưa
Dần
Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng
Thân
Từ15 giờ đến 17 giờ chiều
Mão
Từ 5 giờ đến 7 giờ sáng
Dậu
Từ 17 giờ đến 19 giờ tối
Thìn
Từ7 giờ đến 9 giờ sáng
Tuất
Từ 19 giờ đến 21 giờ tối
Tỵ
Từ9 giờ đến 11 giờ
sáng
Hợi
Từ
21 giờ đến 23 giờ khuya
Căn cứ sự phân chia giờ ở trên,
chúng ta thấy :
a)- Ban ngày dài được 14
giờ, còn ban đêm dài được
10 giờ và thấy được giờ Tý
canh Ba, từ đó chúng ta
tính được bảng 5 Canh như sau :
Tên Canh
Thời Gian
Canh 1
Từ 19 giờ đến 21 giờ tức giờ
Tuất
Canh 2
Từ 21 giờ đến 23 giờ khuya tức
giờ Hợi
Canh 3
Từ 23 giờ đến 1 giờ
sáng tức giờ Tý
Canh 4
Từ 1 giờ đến 3 giờ sáng
tức giờ Sửu
Canh 5
Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng
tức giờ Dần
Do vậy, nếu chúng ta đem so
sánh Canh với giờ, thì có hai
giờ bằng một Canh và nếu đem so sánh
bảng Giờ trong một ngày của 12 con
Giáp ở trước sẽ thấy đúng.
b)- Mỗi ban ngày dài 14 giờ,
đươc chia cho 6 khắc như bảng sau đây :
Tên Khắc
Thời Gian
TênKhắc
Thời Gian
Khắc 1
Từ 5
giờ đến 7 giờ 20 sáng
Khắc 4
Từ 12 giờ đến 14 giờ 20 xế trưa
Khắc 2
Từ 7 giờ 20 đến 9 giờ 40 sáng
Khắc 5
Từ 14
giờ 20 đến16 giờ 40 chiều
Khắc 3
Từ 9
giờ 40 đến12 giờ trưa
Khắc 6
Từ 16
giờ 40 đến 19 giờ tối
Như vậy, nếu chúng ta đem so
sánh Khắc với Giờ, thì
có 2 giờ 20 phút bằng 1
Khắc. Bởi vì, ban ngày
dài 14 giờ, đem chia đều cho 6Khắc, thì đuợc 140 phút,
tức là 2 giờ 20 phút.
Thế nên, chúng ta thường thấy
câu : Đêm Năm Canh, Ngày
Sáu Khắc là quả đúng vậy.