MỘT BÍ ẨN
LỊCH SỬ
Thẩm
phán Phạm
Đình Hưng
Hồ Chí Minh và Nguyễn Tất Thành là một người hay hai người khác nhau. ? Đến ngày hôm nay, các công trình nghiên cứu sâu rộng, công phu và khách quan của nhiều tác giả ngoại quốc vẫn chưa trả lời được câu hỏi kể trên. Về mặt khoa học, chỉ có một cuộc khảo nghiệm DNA hài cốt của Hồ Chí Minh, cố Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đang được thờ phượng tại Ba Đình (Hà Nội) và cố Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (thân phụ của Nguyễn Sinh Cung tức Nguyễn Tất Thành) đã được chôn cất tại Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp ngày nay. Nhưng nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội không muốn phơi bày bí ẩn lịch sử nầy, chọn lựa giữ im lặng khi phải đối đầu với một vấn đề khó khăn khả dĩ làm tổn thương đến uy tín của mình trước nhân dân Việt Nam và quốc tế. Hơn nửa, bộ máy tuyên truyền của đảng Cộng sản Việt Nam không bao giờ tôn trọng sự thật lịch sử, luôn luôn đề cao sự sáng suốt của đảng và không chấp nhận đảng có sai lầm. Căn
cứ vào các công trình nghiên cứu của các tác
giả ngoại quốc và một số dữ kiện lịch sử chính
xác, tôi có vài nhận xét về một bí ẩn lịch sử
đã có tầm ảnh hưởng vô cùng quan trọng đối với
đất nước và dân tộc Việt Nam từ thập niên 1940
đến nay. Bí ẩn đó là : Hồ Chí Minh và Nguyễn
Tất Thành là một người hay là hai người khác
nhau ?
Lý
lịch của Nguyễn Tất Thành
Nguyễn
Sinh Cung (tức Nguyễn Tất Thành) sanh tại Nghệ
An năm 1890, con của Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Sau khi học hết bậc Tiểu học, Nguyễn Tất Thành
được nhận vào trường Quốc Học ở Huế nhờ cha là
quan lại của Nam triều. Bỏ học và rời khỏi
trường Quốc Học rất sớm, Nguyễn Tất Thành đi
vào Phan Thiết dạy học tại trường Dục Anh rồi
đi vào Sài Gòn làm phụ bếp dưới tàu Amiral
Latouche Tréville ( lấy tên Văn Ba) để xuất
dương sang Pháp tìm kế sinh nhai và danh vọng.
Thất bại trong việc xin vào học trường Thuộc
địa của Pháp, Nguyễn Tất Thành tiếp tục làm
việc trên các tàu viễn dương rồi qua London,
Anh quốc, làm thợ nhồi bột cho một lò bánh mì
của người Pháp. Năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở
về Paris theo lời gọi của trưởng thượng Phan
Châu Trinh và gia nhập Nhóm Ngũ Long gồm có
Phó bảng Phan Châu Trinh, Tiến sĩ Luật Phan
văn Trường, Cử nhân Luật Nguyễn An Ninh, Cử
nhân Văn Chương Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn
Tất Thành. Sống kham khổ tại Paris với nghề
thợ rửa hình, Nguyễn Tất Thanh mắc bịnh lao
phổi..Mặc dầu vậy, Nguyễn Tất Thành vẫn ăn mặc
rất chỉnh tề, luôn luôn mặc áo vest và thắt cà
vạt khi đi hội họp.
Ba
năm sau cuộc Cách Mạng 1917 của Nga, Nguyễn
Tất Thành gia nhập đảng Cộng Sản Pháp tại Hội
nghị Tours để bắt chước các người Bolsheviks
Nga làm cách mạng vô sản trên phạm vi toàn thế
giới và xây dựng chủ nghĩa đại đồng vô biên
giới. Tại Hội nghị Tours, Nguyễn Tất Thành đã
nhờ một Đại biểu người Pháp tham dự hội nghị
nầy giải thích cho ông ta biết sự khác biệt
giữa Đệ tam và Đệ tứ Quốc tế Cộng sản. Năm
1924, Nguyễn Tất Thành được Dmitry Manuilsky,
cán bộ Đệ tam Quốc tế Cộng sản (Komintern)
tuyển dụng và đưa qua Moscowa huấn luyện cấp
tốc về kỹ thuật công tác của một cán bộ cộng
sản trước khi phái đến Quảng Châu trong tỉnh
Quảng Đông làm thông dịch viên dưới quyền của
Trưởng Phái bộ Liên xô Mikhail Borodin. Năm
1927, Thống chế Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa
Quốc Dân đảng ra tay diệt trừ cộng sản, Nguyễn
Tất Thành chạy về Moscowa và đến Thái Lan ẩn
náu. Năm 1930, Nguyễn Tất Thành vâng lịnh của
Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Liên Xô Josef Stalin
đến Hong Kong tham dự việc thành lập đảng Cộng
Sản Việt Nam ngày 3-2-1930 cùng với 3 người
Việt và một người Tàu tên Hồ Tập Chương (bí
danh Hồ Quang), Đại biểu của Đệ tam Quốc tế
Cộng sản. Kể từ đó, Nguyễn Tất Thành đã du
nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam để gieo
rắc tai họa cho đất nước và dân tộc Việt Nam
từ năm 1931 đến nay. Ở lại Hong Kong hoạt động
với bí danh Tống văn Sơ, Nguyễn Tất Thành bị
nhà cầm quyền Anh bắt giữ năm 1931 nhưng được
cho nằm điều trị trong một bịnh viện bài lao
vì ông ta mắc bịnh lao trầm trọng. Năm 1932,
báo chí Hong Kong loan tin Tống văn Sơ (tức
Nguyễn Tất Thành) đã qua đời. Trong quyển sách
“Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo”, giáo sư Sử học
Hồ Tuấn Hùng ở Đài Loan, cháu của Hồ Tập
Chương, cũng ghi rõ sự kiện nầy.
Nguyễn
Tất Thành mất tích
Kể
từ năm 1932 đến năm 1938, Nguyễn Tất Thành đã
mất tích một cách bí mật. Ông ta biến dạng
trong cõi hư vô và chỉ còn là một hình bóng
phai mờ trước bọn đàn em đang được Josef
Stalin trọng dụng (Trần Phú, Hà Huy Tập, Trần
văn Giàu, Lê Hồng Phong, Nguyễn văn Cừ). Thậm
chí Nguyễn Ái Quốc (bí danh của Nguyễn Tất
Thành) còn không được tham dự chánh thức Đại
hội 7 của Đệ tam cộng sản quốc tế như hai đàn
em Lê Hồng Phong và Nguyễn thi Minh Khai.
Người cộng sản Việt Nam đầu tiên nầy bị Stalin
nghi ngờ và thất sủng vì trong thời gian lưu
trú lần thứ hai tại Nga (1933-1938) ông ta
biểu lộ một vài nghi vấn về lý lịch:
-
Khi ghi danh học trường quốc tế Lenin, Nguyễn
Ái Quốc khai y sanh năm 1903 thay vì 1890. Một
người trung niên có học như Nguyễn Ái Quốc
không thể quên năm sanh của mình! Sở dĩ có sự
sai biệt về năm sanh là vì người đội lốt
Nguyễn Ái Quốc là Hồ Tập Chương, người dân tộc
Hẹ (Khách Gia) sanh tại Đài Loan năm 1901, nhỏ
hơn Nguyễn Ái Quốc 11 tuổi.
-
Trong tờ khai lý lịch, Nguyễn Ái Quốc (giả)
mang bí danh P.C.Lin chỉ khai một chút ít dữ
kiện về lý lịch của mình và ghi rằng y không
có khả năng chuyên nghiệp gì cả.
(Sophie
Quinn Judge, Ho Chi Minh: The Missing Years,
University of California Press,2002, --- Hồ
Tuấn Hùng, Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, Đài
Loan, 2008)
Không
những nghi ngờ Nguyễn Ái Quốc (giả), Stalin
còn có ý định giết chết y trong cuộc Đại Thanh
trừng (Great Purge) năm 1935 nếu không có sự
can thiệp của Georgi Dimitrov, Cố vấn của nhà
độc tài Liên xô. Tha chết cho Nguyễn Ái Quốc
(giả) nhưng Stalin không giao bất cứ công tác
gì mà còn đặt ông ta trong tình trạng bị mật
vụ theo dõi.
Sự
xuất hiện của Hồ Quang (Hồ Tập Chương)
Mãi
đến năm 1938, một nhân vật tên Hồ Quang (bí
danh của Hồ Tập Chương) từ Liên Xô đến đột
nhiên xuất hiện tại Diên An, căn cứ địa của
Cộng sản Tàu trong giai đoạn 1935-1948 thuộc
tỉnh Thiểm Tây, và có tư cách đảng viên đảng
Cộng sản của nước Tàu. Gia nhập Bát lộ quân
năm 1939, Hồ Quang đã phục vụ quân đội Tàu
cộng với cấp bậc Thiếu tá. Sau một thời gian
công tác tại Hoa Nam, Hồ Quang được đặc phái
qua Việt Nam năm 1940 với sứ mạng liên tục gây
ra chiến tranh để giết chết vô số nhân tài và
sinh mạng, tiêu hao sinh lực của nước Việt,
chuẩn bị việc thôn tính bán đảo Đông Dương và
Đông Nam Á theo kế hoạch của Mao Trạch Đông.
Ẩn trốn trong hang Pác Bó (Cao Bằng) dưới sự
bảo vệ của cán binh Tàu cộng và bọn người dân
tộc Tày của Chu văn Tấn, Hồ Quang thường xuyên
qua lại biên giới Hoa Việt. Năm 1943, từ Quảng
Tây trở về hang Pác Bó, Hồ Quang mang một tên
mới : Hồ Chí Minh. Sự cực kỳ độc ác của Hồ Chí
Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc
Việt đã khiến cho rất nhiều người nghĩ rằng Hồ
Chí Minh thật sự là Hồ Tập Chương, một người
Tàu Đài Loan dân tộc Hẹ (Hakkard) đúng theo sự
xác quyết của giáo sư Sử học Hồ Tuấn Hùng, một
người cháu trong gia tộc của Hồ Tập Chương
không có ân oán gì trong cuộc Chiến Tranh Việt
Nam. Mới đây, sau khi Trung Cộng công khai hóa
một số bí mật về Hồ Chí Minh tức Thiếu tá Hồ
Quang của Quân đội Nhân Dân Giải Phóng, tính
thuyết phục của quyển sách “Hồ Chí Minh Sinh
Bình Khảo” càng tăng thêm. Ngoài các quyển
sách của giáo sư Đài Loan Hồ Tuấn Hùng, giáo
sư William J.Duiker và sử gia Sophie Quinn
Judge còn có vài nguồn tin chính xác khác và
một số sự kiện cụ thể liên quan đến Hồ Chí
Minh.
Hồ
Chí Minh thật sự là ai?
1)
Ngô Trọc Lưu, người được xem là người cha của
nền văn nghệ Đài Loan, đã xuất bản tại Đài
Loan năm 1947 một quyển sách tựa đề “Hồ Chí
Minh” viết bằng Nhật ngữ. Thân cận với Hồ Tập
Chương và các người em của nhân vật kỳ bí nầy,
Ngô Trọc Lưu xác quyết Hồ Chí Minh là Hồ Tập
Chương, người thuộc sắc tộc Hẹ tức Khách Gia
(Hakkard) sanh tại Huyện Miêu Lật, Địa khu
Đông La, Đài Loan
2)
Ký giả cộng sản Trần Đĩnh, một nhân vật thân
cận của Hồ Chí Minh, đã hé lộ một chi tiết
đáng kể về lý lịch của người “cha già dân tộc”
của cộng sản Việt Nam.
Trong
quyển “Đèn Cù”, ký giả Trần Đĩnh tiết lộ đã
nghe Hồ Chí Minh nói tiếng Hẹ của dân tộc
Hakkard rất lưu loát, thấy “Bác”rất thich thú
đi dạo chơi thành phố Móng Cái và biết rất rõ
thành phố nầy mặc dầu mới đến đây lần đầu tiên
năm 1960. Ký giả Trần Đĩnh nghĩ rằng “Bác Hồ”
đã có ở trong thành phố Móng Cáy khá lâu. Suy
nghĩ nầy phù hợp với một vài chi tiết trong lý
lịch của Hố Tập Chương: Năm 1931, Hồ Tập
Chương bị bắt tại Quảng Châu cùng một thời
gian với Nguyễn Ái Quốc (bí danh Tống văn Sơ)
đang bị giam giữ tại Hong Kong. Sau khi được
cộng sản Tàu giải cứu, Hồ Tập Chương đã đến
vùng rừng núi Quảng Tây khai thác hầm mõ từ
năm 1932 đến 1933. Kể từ đó, ông ta không còn
liên lạc với gia đình. Khi ở Quảng Tây, Hồ Tập
Chương có nhiều điều kiện thuận lợi để đi qua
Móng Cáy hoạt động cùng cô Bí thư một Chi bộ
cộng sản tại thị trấn biên giới nầy.
3)
Tập thơ “Ngục Trung Nhật Ký” của Hồ Chí Minh
(tự nhận là tác giả) có thể cung cấp một thông
tin hữu ích về nguồn gốc địa phương của tác
giả: trong tập thơ nầy có một số từ ngữ đặc
thù và lối chơi chữ chỉ có người dân tộc Hẹ
(Hakkard) mới biết dùng. Cần lưu ý: Nguyễn Tất
Thành chỉ có trình độ sơ cấp về Hán văn và chỉ
biết nói tiếng Quảng Đông nhờ hoạt động tại
Quảng Châu từ 1924 đến 1927 và ăn ở với Tăng
Tuyết Minh, người vợ xẩm có cưới hỏi năm 1925
qua mai mối của Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu
(vợ Chu Ân Lai)
4)
Trước khi qua đời ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh
muốn được nghe một bài hát của Tàu do một cô
xẩm hát. Tại sao một nhà lãnh đạo người Việt
lại muốn nghe một bài hát của Tàu trước khi
chết, nhứt là do một cô xẩm hát?
5)
Giáo sư William J. Duiker trong quyển sách “
Ho Chi Minh: A Life” có nhận xét một sự khác
biệt về thói quen giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ
Chí Minh: Nguyễn Ái Quốc ăn mặc rất chải chuốt
và luôn luôn thắt cà vạt còn trang phục của Hồ
Chí Minh thì rất lượm thượm, ông ta không bao
giờ thắt cà vạt, trông rất quê mùa.(William
J.Duiker, Ho Chi Minh :A Life, New York
Hiperion, 2001)
6)
Năm 1931, trong khi Nguyễn Ái Quốc bị giam giữ
tại Hong Kong Hồ Tập Chương bị bắt tại Quảng
Châu. Nhờ một nữ cán bộ cộng sản tên Lâm Y Lan
giải cứu đưa đến Hạ Môn, một thành phố cảng
nằm ở phía Đông Nam tỉnh Phước Kiến, Hồ Tập
Chương đã có một mối tình thắm thiết với cô
gái Quảng Đông nầy trong thập niên 1930. Sau
nầy, Chủ tịch Hồ Chí Minh của miền Bắc cộng
sản nhờ Đào Chú, một cán bộ cao cấp đảng Cộng
sản Tàu và Chủ tịch Mao trạch Đông tác hợp với
Lâm Y Lan nhưng bị Lê Duẫn, Bí thư thứ nhứt
đảng Cộng sản Việt Nam, chống đối nên không
thành. Năm 1968, Lâm Y Lan chết ở Quảng Đông,
Hồ Chí Minh buồn rầu đi theo người yêu xuống
tuyền đài năm sau (1969). Cần ghi nhận Hồ Chí
Minh không hề muốn gặp lại Tăng Tuyết Minh,
người nữ cán bộ cộng sản ở Quảng Châu đã chánh
thức kết hôn với Nguyễn Ái Quốc năm 1925. Thái
Sướng và Đặng Dĩnh Siêu (vợ Chu Ân Lai) cũng
như đảng Cộng sản Tàu cũng không muốn đưa Tăng
Tuyết Minh qua Hà Nội tái hợp với Hồ Chí Minh
vì sợ lộ thân phận của ông Chủ tịch đảng Cộng
sản Việt Nam.
7)
Lúc ông Cả Khiêm tức Nguyễn Sinh Khiêm (anh cả
của Nguyễn Tất Thành) và bà Nguyễn thị Thanh
(chị của Nguyễn Tất Thành) còn sống ở Nghệ An,
Chủ tịch Hồ Chí Minh không hề về quê nhà để
thăm hai anh, chị ruột. Thậm chí khi hai người
nầy qua đời, Hồ Chí Minh cũng không về Nghệ An
để phúng điếu. Năm 1945, bà Nguyễn thi Thanh
đã lặn lội từ Nghệ An ra Hà Nội thăm em xa
cách gia đình mấy chục năm cũng không được Chủ
tịch Hồ Chí Minh tiếp. Dường như, Hồ Chí Minh
cố ý tránh gặp ông Cả Khiêm và bà chi Nguyễn
thị Thanh để khỏi bị phát giác sự khác biệt
giữa Nguyễn Tất Thành và Hồ Chí Minh. Khác hẵn
quảng đại quần chúng Việt Nam, Hồ Chí Minh
không có tình cảm anh chị em ruột thịt và tình
tự quê hương xứ sở. Ông ta rất xa lạ đối với
người anh cả và người chị ruột.
Nói
tóm lại, các tài liệu viết của người ngoại
quốc và các sự kiện cụ thể kể trên giúp cho
tôi có một cơ sở vững chắc để phán đoán và kết
luận: Nguyễn Sinh Cung tức Nguyễn Tất Thành và
Hồ Chí Minh là hai người khác nhau.
Thẩm phán Phạm Đình Hưng Mùa Thu California, 2014 |