QUỐC
KỲ và QUỐC CA VIỆT NAM
NGUYỄN
NGỌC HUY
NGUYỄN NGỌC HUY Tác
giả bài viết qua đời vào cuối tháng 7/1990.
Sau
năm 1975, đồng bào Việt Nam ở hải ngoại đã nhiều lần nghe những
ý kiến phát biểu bằng lời nói hay bằng những bài báo về quốc kỳ
và quốc ca Việt Nam. Trong những dữ kiện và ý kiến được trình
bày, có cái không đúng sự thật, có cái đúng sự thật nhưng gây ra
một số thắc mắc và hoang mang. Viết bài này, tác giả chỉ có mục
đích trình bày một số dữ kiện lịch sử xác thật về quốc kỳ và
quốc ca Việt Nam và đánh tan những luận điệu có thể làm cho
người quốc gia Việt Nam thắc mắc và hoang mang về lá quốc kỳ và
bài quốc ca của chúng ta.
I. QUỐC KỲ VIỆT NAM
A. SỰ XUẤT HIỆN CỦA Ý NIỆM QUỐC KỲ TRONG
LỊCH SỬ NHƠN LOẠI
Việc
dùng một mảnh hàng hay vải có màu sắc và hình thức nhứt định để
biểu tượng cho một nhơn vật, một gia tộc lãnh đạo hay một cộng
đồng chánh trị đã có từ ngàn xưa. Trong các cuộc giao tranh dữ
dội trên các bãi chiến trường cổ kim, binh sĩ hai bên đối đầu
nhau đều lấy cờ của bên mình làm điểm hội tập và đều tận lực
tranh đấu, thường khi phải hy sinh cả tánh mạng để bảo vệ nó.
Trong lịch sử quân sự của mọi cộng đồng chánh trị, việc cắm được
cờ của mình trên đất địch hay cướp đoạt được cờ của quân lực
địch đều được xem là một chiến công rạng rỡ.
Tuy
nhiên, trước cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, phần lớn các nước
trên thế giới đều theo chế độ quân chủ, hoặc là quân chủ chuyên
chế trong đó chỉ có một nhà vua nắm trọn quyền lãnh đạo và được
xem là sở hữu chủ duy nhứt của quốc gia, hoặc là quân chủ phong
kiến trong đó bên dưới nhà vua còn có những nhà quí tộc làm chủ
các lãnh địa, và có khi có những thị xã tự trị trong đó quyền
điều khiển thuộc một nhóm người hào phú địa phương. Một số cộng
đồng chánh trị nhỏ thời đó đã theo chế độ cộng hòa hay dân quốc.
Với chế độ này, quyền lãnh đạo cộng đồng thuộc về một vài thế
gia cự tộc. Các cộng đồng chánh trị kể trên đây đều độc lập hoàn
toàn hay phải tùy thuộc một cộng đồng chánh trị lớn hơn đều có
lá cờ làm biểu hiệu cho mình. Nhưng vì cộng đồng được xem là vật
sở hữu của một gia tộc hay một thiểu số gia tộc lãnh đạo nên lá
cờ của cộng đồng cũng được xem như là lá cờ của gia tộc hay các
gia tộc đó.
Ý
niệm quốc kỳ biểu tượng cho toàn thể quốc dân chỉ mới xuất hiện
với cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789. Với cuộc cách mạng này, quốc
gia không còn được xem là vật sở hữu của một gia tộc, mà là vật
sở hữu chung của toàn thể mọi ngưoi sống trong cộng đồng. Hệ
luận của quan niệm mới này là lá cờ một nước không còn là biểu
tượng của gia tộc lãnh đạo, mà là biểu tượng của toàn thể quốc
dân. Người Pháp đã dùng từ ngữ drapeau national để chỉ loại cờ
này. Quan niệm của người Pháp lần lần được người các nước khác
chấp nhận và người thuộc các dân tộc nói tiếng Anh đã dùng từ
ngữ national flag khi nói đến lá cờ của mình. Drapeau national
của Pháp và national flag theo tiếng Anh đã được người Việt Nam
chúng ta dịch là quốc kỳ.
Về
mặt thực hiện cụ thể thì lá quốc kỳ đầu tiên trên thế giới là cờ
tam sắc của Pháp gồm ba màu xanh, trắng, đỏ, xếp ngang nhau theo
thứ tự kể trên đây. Sự hình thành của lá cờ này là kết quả của
một sự thương lượng giữa hoàng gia Pháp và nhơn dân thị xã
Paris. Lá cờ tiêu biểu cho hoàng gia Pháp từ nhiều đời vốn nền
trắng trên có thêu một hoa huệ màu vàng. Thời quân chủ Pháp,
Paris là một thị xã được hưởng quyền tự trị và có lá cờ riêng
gồm hai màu xanh và đỏ xếp ngang nhau. Khi người dân Paris nổi
lên làm cách mạng đòi hỏi chánh quyền cải tổ chế độ, họ vẫn còn
chấp nhận nền quân chủ. Nhà vua Pháp lúc đó là Louis XVI một mặt
vì nhu nhược, một mặt vì thiếu phương tiện nên không dùng võ lực
đối phó một cách quyết liệt với phong trào cách mạng và chịu
chấp nhận các yêu sách của nhơn dân Paris. Do đó, hai bên đã
đồng ý nhau lấy cờ của hoàng gia và cờ của thị xã Paris trộn lại
làm huy hiệu cho nước Pháp. Nhà vua là quốc trưởng nắm quyền
Hành Pháp nên màu trắng của cờ hoàng gia được đặt ở giữa, hai
màu xanh đỏ của cờ thị xã Paris được ghép hai bên thành một huy
hiệu tam sắc. Huy hiệu này lần lần được phổ biến khắp nơi trong
nước, và đến năm 1793, Quốc Ước Hội Nghị đã chánh thức biểu
quyết lấy cờ tam sắc làm quốc kỳ cho nước Pháp.
Phải
nói rằng về mặt thẩm mỹ, cờ tam sắc này rất đẹp. Mặt khác, Cách
Mạng Pháp thời đó lấy làm tiêu ngữ ba khẩu hiệu Liberté -
Égalité - Fraternité là Tự Do - Bình Ðẳng - Bác Ái. Ba màu của
quốc kỳ Pháp được xem là tiêu biểu cho ba tiêu ngữ trên đây: màu
xanh tiêu biểu cho Tự Do, màu trắng tiêu biểu cho Bình Ðẳng và
màu đỏ tiêu biểu cho Bác Ái. Cờ tam sắc của Pháp đã đẹp mà còn
được giải thích một cách đầy đủ ý nghĩa tượng trưng rất phù hợp
với lý tưởng chung của nhơn loại nên quốc dân Pháp đã nhiệt liệt
hoan nghinh nó và chấp nhận nó làm biểu tượng cho mình. Về sau,
nhiều nước Tây Phương khác chịu ảnh hưởng của Cách Mạng Pháp đã
chọn ba màu xanh, trắng, đỏ, làm quốc kỳ với những giải thích
hơi khác nhau, nhưng vẫn dùng ba màu này làm tiêu biểu cho các
lý tưởng tự do, bình đẳng và bác ái là nền tảng chung của các xã
hội dân chủ tự do.
B. CÁC LÁ CỜ ÐÃ XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM VỚI
TƯ CÁCH LÀ QUỐC KỲ
1. Quốc kỳ xuất hiện đầu tiên: cờ long
tinh của Hoàng Ðế Bảo Ðại
Ở
Việt Nam trước đây cũng như ở các nước quân chủ cổ thời khác,
các lá cờ được dùng để biểu tượng cho một nhà lãnh đạo. Hiệu kỳ
của một vị tướng cầm đầu một đạo quân thường có màu phù hợp với
mạng của vị tướng đó: người mạng kim thì cờ màu trắng, người
mạng mộc thì cở màu xanh, người mạng thủy thì cờ màu đen, người
mạng hỏa thì cờ màu đỏ, người mạng thổ thì cờ màu vàng. Màu cờ
của các triều đại thì được các nhà sáng lập chọn lựa theo sự
tính toán dựa vào thuyết của học phái Âm Dương Gia nghiên cứu về
sự thạnh suy của ngũ hành lưu chuyển trong vũ trụ sao cho triều
đại mình hợp với một hành đang hưng vượng. Ngoài cờ chung của
triều đại, mỗi nhà vua đều có thể có lá cờ riêng của mình. Nhưng
các lá cờ này chỉ để biểu tượng cho hoàng gia. Về ý niệm quốc kỳ
biểu tượng cho cả dân tộc Việt Nam, nó chỉ xuất hiện ở nước ta
khi dân tộc ta bị lọt vào ách thực dân Pháp.
Tuy
nhiên, trong gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn chưa
có quốc kỳ. Lúc ấy, Nam Việt (được gọi là Nam Kỳ) là thuộc địa
Pháp và phải dùng cờ tam sắc của Pháp, Bắc Việt và Trung Việt
(được gọi là Bắc Kỳ và Trung Kỳ) trên lý thuyết là lãnh thổ của
nhà Nguyễn. Các nhà vua Việt Nam thời đó đều có lá cờ biểu tượng
cho mình như thời còn độc lập, nhưng cờ này chỉ được treo nơi
nào có nhà vua ngự đến chớ không phải ở mọi nơi trong nước và dĩ
nhiên không có tánh cách một quốc kỳ. Mãi đến thời Thế Chiến II,
Hoàng Ðế Bảo Ðại mới ấn định quốc kỳ đầu tiên.
Nguyên
lúc đó, người Pháp đã thua Ðức và rất suy kém. Họ không còn đủ
quân lực để bảo vệ các thuộc địa xa xôi. Riêng ở Ðông Dương thì
người Nhựt lợi dụng sự suy kém của Pháp đòi quyền đem binh vào
chiếm đóng đất này để lấy nó làm bàn đạp phong tỏa phía nam
Trung Quốc và tiến đánh Ðông Nam Á Châu với dụng ý chinh phục cả
Á Châu. Chánh phủ Pháp không thể từ chối lời đòi hỏi của Nhựt và
viên Toàn Quyền thời đó là Ðề Ðốc Decoux có nhiệm vụ phải chịu
hợp tác với quân chiếm đóng Nhựt, đồng thời cố gắng đến tối đa
để bảo vệ quyền lợi Pháp ở Ðông Dương. Ý thức rằng chánh sách
thực dân Pháp trước Thế Chiến II làm bất mãn người Việt Nam mọi
giới, Toàn Quyền Decoux đã áp dụng một chánh sách hai mặt: một
mặt triệt để đàn áp các phần tử cách mạng chống Pháp, một mặt
xoa dịu người Việt Nam nói chung. Trong khuôn khổ của mặt thứ
nhì trong chánh sách này, ông đã có những biện pháp nâng cao uy
tín của các nhà vua Ðông Dương.
Hoàng
Ðế Bảo Ðại nhơn cơ hội này đã đưa ra một vài cải cách và ban
chiếu ấn định quốc kỳ của nước Ðại Nam. Quốc kỳ này tên là cờ
long tinh, nền vàng với một sọc đỏ nằm vắt ngang ở giữa, bề
ngang của sọc đỏ này bằng 1/3 bề ngang của cả lá cờ. Cờ long
tinh được dùng trên lãnh thổ Ðại Nam, nghĩa là ở Bắc Kỳ và Trung
Kỳ, vì Nam Kỳ lúc đó vẫn là thuộc địa Pháp và vẫn phải dùng lá
cờ tam sắc của Pháp.
2. Quốc kỳ thứ nhì: cờ quẻ Ly của chánh
phủ Trần Trọng Kim
Chánh
quyền thuộc địa Pháp ở Ðông Dương đã bị quân đội Nhựt lật đổ
ngày 9 tháng 3 năm 1945. Hai ngày sau, Hoàng Ðế Bảo Ðại tuyên bố
độc lập. Chánh phủ độc lập đầu tiên được thành lập ngày 17 tháng
4 năm 1945 do nhà học giả Trần Trọng Kim cầm đầu. Quốc hiệu được
đổi là Ðế Quốc Việt Nam và theo chương trình hưng quốc được
chánh phủ Trần Trọng Kim ban bố ngày 8 tháng 5 năm 1945 thì quốc
kỳ được chọn gọi là cờ quẻ Ly. Cờ này cũng nền vàng, ở chính
giữa có một quẻ Ly màu đỏ. Ly là một trong 8 quẻ của bát quái và
gồm một vạch liền, một vạch đứt và một vạch liền, bề rộng của
các vạch này chỉ bằng một phần bề rộng chung của lá cờ.
Cờ
quẻ Ly trên nguyên tắc là cờ của cả nước Việt Nam gồm có ba kỳ.
Nhưng trong thực tế, nhà cầm quyền quân sự Nhựt đã không trao
trả Nam Kỳ ngay cho triều đình Huế. Việc trao trả này chỉ thực
hiện ngày 14 tháng 8 năm 1945, nghĩa là 4 ngày sau khi chánh phủ
Nhựt quyết định đầu hàng Ðồng Minh và 10 ngày trước khi Hoàng Ðế
Bảo Ðại thoái vị. Do đó, đại diện của triều đình Huế chưa bao
giờ được thật sự cầm quyền ở Nam Việt và cờ quẻ Ly đã không được
dùng ở đó.
Trong
thời gian từ ngày Nhựt đảo chánh Pháp cho đến khi Việt Minh củng
cố được chánh quyền cộng sản ở Nam Việt thì cả lãnh thổ này
không có quốc kỳ. Lá cờ là điểm hội tập các phần tử quốc gia Nam
Việt quyết tâm tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam thời đó là
cờ của Thanh Niên Tiền Phong, một tổ chức được thành lập ngày 21
tháng 4 năm 1945, sau khi Nhựt đảo chánh Pháp, để giúp vào việc
cứu trợ những nạn nhơn của các cuộc oanh tạc của Ðồng Minh và
sau đó, tiếp tay vào việc giúp đỡ đồng bào miền Bắc bị nạn đói.
Cờ của Thanh Niên Tiền Phong nền vàng, chính giữa có ngôi sao
đỏ. Nó không hề được xem là quốc kỳ, nhưng vì nó là cờ huy động
các thanh niên ái quốc Nam Việt cầm tầm vông vạt nhọn đứng lên
tranh đấu với Quân Ðội Viễn Chinh Pháp đến xâm chiếm Nam Việt
trở lại nên tôi thấy có nhiệm vụ phải nhắc đến nó trong bài khảo
cứu này về các lá cờ đã được dùng ở Việt Nam.
3. Cờ đỏ sao vàng của tập đoàn Cộng Sản
Việt Nam (CSVN)
Khi
cướp chánh quyền ở Bắc Việt hồi tháng 8 năm 1945, tập đoàn CSVN
dưới tên Việt Minh đã dùng cờ đỏ sao vàng. Cờ này sau đó được họ
dùng ở những nơi họ chiếm đoạt được và cho đến nay, vẫn được họ
tiếp tục xem là quốc kỳ.
4. Cờ của Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc
Khi
chiếm lại được các thành phố lớn ở Nam Việt, chánh quyền Pháp đã
khuyến khích phong trào Nam Kỳ tự trị. Ngày 26 tháng 3 năm 1946,
họ đã cho thành lập Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc, tên Pháp là République
de Cochinchine và Cộng Hòa Quốc này đã có một quốc kỳ nền vàng,
với 5 sọc vắt ngang ở giữa gần như quốc kỳ của ta hiện tại,
nhưng thay vì ba sọc đỏ và hai hai sọc vàng như quốc kỳ của ta,
nó gồm ba sọc xanh và hai sọc trắng chen nhau. Xét về mặt thẩm
mỹ, cờ này rất khó coi. Bởi đó, trong những bài trào phúng trong
báo Ðuốc Việt là cơ quan ngôn luận bán chánh thức của Xứ Bộ Nam
Việt Ðại Việt Quốc Dân Ðảng lúc ấy, tôi đã đặt cho nó cái biệt
danh là lá cờ sốt rét.
5. Quốc kỳ của chúng ta hiện nay
Quốc
kỳ của chúng ta hiện nay do một họa sĩ nổi tiếng thời Thế Chiến
II là Lê Văn Ðệ vẽ và đã được Cựu Hoàng Bảo Ðại chọn trong nhiều
mẫu cờ khác nhau được trình cho ông trong một phiên họp ở
Hongkong năm 1948, gồm có ông và đại diện các đoàn thể chánh trị
và tôn giáo cùng một số thân hào nhơn sĩ về phía người quốc gia
Việt Nam. Như mọi người đều biết, nó có nền vàng với ba sọc đỏ
và hai sọc vàng chen nhau nằm vắt ngang ở giữa, bề ngang của mỗi
sọc đỏ và vàng này bằng nhau và bề ngang chung của năm sọc bằng
1/3 bề ngang chung của lá cờ. Cờ vàng ba sọc đỏ đã được dùng làm
quốc kỳ cho quốc gia Việt Nam khi chánh phủ lâm thời Việt Nam
được thành lập ngày 2 tháng 6 năm 1948 dưới sự chủ tọa của Tướng
Nguyễn Văn Xuân. Nó đã tiếp tục được dùng suốt thời Ðệ Nhứt và
Ðệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam, cho đến ngày nay.
C. Ý NGHĨA CỦA LÁ CỜ ÐÃ ÐƯỢC DÙNG LÀM
QUỐC KỲ
Trong
các lá cờ mô tả trên đây, cờ vàng sao đỏ không hề được xem là
quốc kỳ, cờ sốt rét của Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc chỉ là cờ của một
chánh phủ bù nhìn dùng trên bộ phận của nước Việt Nam. Vậy, đúng
danh nghĩa quốc kỳ chỉ có bốn lá cờ: cờ long tinh, cờ quẻ Ly, cờ
đỏ sao vàng của tập đoàn CSVN và cờ vàng ba sọc đỏ của người
quốc gia Việt Nam. Lúc cờ vàng ba sọc đỏ ra đời, một số người đã
gọi chung bốn lá cờ trên đây là cờ tứ linh: cờ long tinh dĩ
nhiên là cờ long, chữ ly trong cờ quẻ Ly đồng âm với ly là con
lân, cờ của tập đoàn CSVN được xem là qui vì nó có ngôi sao 5
nhánh y như con rùa ló đầu và bốn chơn ra và quốc kỳ của chúng
ta là phụng vì nó có ba sọc đỏ nằm song song nhau như đuôi chim
phụng.
1. Ý nghĩa và màu sắc của bốn lá cờ được
dùng làm quốc kỳ
Ðiều
đáng để ý là cả bốn lá cờ được dùng làm quốc kỳ Việt Nam đều gồm
hai màu vàng và đỏ. Tuy nhiên, màu sắc của lá cờ CS nền đỏ sao
vàng có ý nghĩa hoàn toàn khác ba lá cờ về phía người quốc gia
Việt Nam.
a. Ý nghĩa lá cờ đỏ sao vàng của tập
đoàn CSVN
Ðảng
kỳ của Cộng Sản Ðệ Tam Quốc nền đỏ trên có búa và liềm màu vàng.
Quân Ðội Cộng Sản Nga lúc nổi lên cướp chánh quyền thì lấy ngôi
sao đỏ làm biểu hiệu. Quốc kỳ của Liên Sô gồm huy hiệu của Ðảng
và Quân Ðội nên cũng nền đỏ trên có búa liềm vàng và ngôi sao
đỏ. Nhưng muốn cho ngôi sao đỏ hiện được trên nền đỏ của lá cờ,
Cộng Sản Liên Sô đã phải dùng một viền màu vàng bao quanh nó.
CSVN đã phỏng theo cờ Liên Sô để làm quốc kỳ. Nhưng năm 1945, họ
còn phải giấu tánh chất cộng sản của họ nên không dám để búa
liềm trên quốc kỳ này và chỉ dùng ngôi sao tượng trưng cho quân
lực cộng sản. Ðiểm khác với Liên Sô là ngôi sao tượng trưng cho
quân lực CSVN màu vàng chớ không phải màu đỏ viền vàng.
Chúng
ta không nên quên rằng hai điều căn bản trong điều lệ của Ðảng
Cộng Sản Ðệ Tam Quốc Tế do Lenin thành lập là người tuyên thệ
vào đảng này phải xem Liên Sô là tổ quốc số một của mình và phải
triệt để tuân lịnh cơ quan lãnh đạo của Ðảng đặt tại Liên Sô.
Lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ, Hồ Chí Minh và tập đoàn CSVN đã
biểu lộ ý muốn xem lực lượng quân sự Việt Nam là một lực lượng
phụ dịch cho Quân Ðội Liên Sô, và như vậy thì dĩ nhiên nước Việt
Nam Cộng Sản phải là một nước chư hầu của Liên Sô.
Ý
muốn này đã được thực hiện hoàn toàn sau năm 1975. Lúc CSVN
chiếm được Miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ đã rút lực lượng quân sự
khỏi Ðông Nam Á Châu và sẵn sàng bắt tay với họ. Trung Cộng tuy
không còn là thân hữu và có những hành động chống đối họ, nhưng
không có sự uy hiếp quân sự đáng kể. Nếu CSVN giữ thái độ trung
lập giữa Trung Cộng và Liên Sô, đồng thời tỏ ra hòa hoãn với Hoa
Kỳ, họ đã có thể nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để phát triển kinh tế
và dựa vào cả Hoa Kỳ lẫn Liên Sô để hóa giải áp lực Trung Cộng.
Nhưng tập đoàn CSVN đã công khai đứng về phía Liên Sô để gây hấn
với Trung Cộng và cho Liên Sô dùng Việt Nam làm một căn cứ quân
sự chống lại Trung Cộng, đồng thời uy hiếp lực lượng Hoa Kỳ ở
Thái Bình Dương. Hiện nay, mọi người đều thấy rõ nước Việt Nam
Cộng Sản là một chư hầu của Liên Sô và lực lượng quân sự của
CSVN chỉ là lực lượng phụ dịch của Hồng Quân Liên Sô.
Tuy
những điều kể trên đây chỉ mới thể hiện sau này, nhưng ý đồ của
tập đoàn CSVN đã biểu lộ ngay từ lúc họ lấy cờ đỏ sao vàng làm
quốc kỳ. Vậy, cờ đỏ sao vàng là biểu tượng của tinh thần vọng
ngoại chấp nhận làm thuộc hạ của Liên Sô. Nó hàm ý để cho Liên
Sô có quyền can thiệp vào nội bộ Việt Nam. Ðối với những ai cho
rằng Ðảng Cộng Sản Ðệ Tam Quốc Tế đã bị giải tán năm 1943 nên
Liên Sô không có quyền can thiệp vào việc nội bộ các nước cộng
sản chư hầu, chúng tôi xin nhắc lại rằng Ông Brezhnev, Tổng Bí
Thư Ðảng Cộng Sản Liên Sô khi biện minh cho việc Liên Sô can
thiệp vào việc nội bộ của các nước cộng sản Ðông Âu trong thập
niên 1960 đã công khai nêu trước cộng đồng thế giới thuyết chủ
quyền hạn chế theo đó một nước xã hội chủ nghĩa đàn anh (tức là
Liên Sô) có quyền can thiệp vào việc nội bộ của các nước xã hội
chủ nghĩa đàn em (trong đó dĩ nhiên là có Việt Nam) để bảo vệ
các nguyên lý của xã hội chủ nghĩa.
b. Ý nghĩa của màu vàng và màu đỏ của
những quốc kỳ về phía người quốc gia
Màu
vàng và đỏ của các quốc kỳ về phía người quốc gia thì có một ý
nghĩa hoàn toàn khác. Theo một số người Việt Nam, hai màu của
các quốc kỳ về phía người quốc gia biểu tượng cho dân Việt Nam
da vàng máu đỏ. Tư tưởng này có lẽ đã bị ảnh hưởng ít nhiều lối
giải thích về ý nghĩa lá cờ nửa vàng nửa đỏ mà Việt Nam Quốc Dân
Ðảng đã dùng trong cuộc khởi nghĩa Yên Báy năm 1930. Nhưng lối
giải thích trên đây không đúng đối với các quốc kỳ Việt Nam về
phía người quốc gia. Các quốc kỳ này thật sự có một ý nghĩa sâu
sắc hơn, liên hệ đến cả vũ trụ quan của dân tộc Việt Nam.
Trong
vũ trụ quan này, có sự liên hệ mật thiết giữa các màu sắc,
phương hướng và ngũ hành. Màu vàng thuộc hành thổ và ở vị trí
trung ương. Vì thế, nó vừa tượng trưng lãnh thổ, vừa tượng trưng
cho uy quyền của nhà lãnh đạo tối cao được xem là sở hữu chủ của
lãnh thổ này. Các nhà vua Trung Hoa xưa kia cho mình là kẻ làm
chủ cả thiên hạ. Bởi đó, họ tự xưng là hoàng đế đứng trên các vị
quốc vương làm vua một nuớc, và nắm giữ độc quyền dùng màu vàng
làm y phục. Các nhà vua Việt Nam xưa kia vì thế yếu hơn các nhà
vua Trung Hoa và không muốn có những cuộc chiến tranh liên miên
với họ chỉ vì vấn đề danh phận nên đã phải chấp nhận làm chư hầu
của hoàng đế Trung Hoa với tước hiệu quốc vương. Nhưng trái với
các nhà vua Triều Tiên dùng tước hiệu quốc vương trong mọi
trường hợp và không bao giờ dám mặc y phục màu vàng, các nhà vua
Việt Nam chỉ dùng tước hiệu quốc vương trong sự giao thiệp với
Trung Quốc, còn đối với thần dân trong nước và đối với các nước
láng giềng khác, họ đã tự xưng là hoàng đế. Mặt khác, họ đã mặc
y phục màu vàng y như nhà vua Trung Hoa. Như thế, trong tâm thức
tự ngàn đời của dân tộc Việt Nam, việc dùng màu vàng là biểu
tượng cho một chủ quyền nguyên vẹn của quốc gia, một nền độc lập
hoàn toàn đối với Trung Quốc.
Cũng
trong vũ trụ quan Việt Nam và Trung Hoa thời trước, màu đỏ thuộc
hành hỏa và chỉ phương nam. Do đó, dùng màu đỏ làm biểu tượng là
nhấn mạnh trên chỗ dân tộc ta là một dân tộc ở phương nam, đối
chiếu với dân tộc Trung Hoa ở phương bắc. Cùng với việc dùng màu
vàng, nó nói lên quan điểm của người Việt Nam tự xem mình là một
dân tộc nắm trọn chủ quyền của nước mình và ngang hàng với dân
tộc Trung Hoa.
Quan
điểm trên đây đã được Nguyễn Trãi nêu ra rất rõ trong đoạn đầu
của bài Bình Ngô Ðại Cáo: "Như ngã Ðại Việt chi quốc, thực vi
văn hiến chi bang. Sơn xuyên chi cương vực ký thù, Nam Bắc chi
phong tục diệc dị. Tự Triệu Ðinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,
dữ Hán Ðường Tống Nguyên nhi các đế nhứt phương". Ý nghĩa chánh
xác của đoạn văn trên này là: "Như nước Ðại Việt ta quả là một
nước văn hiến. Bờ cõi núi sông (của nước ta và Trung Quốc) đã
phân biệt nhau mà phong tục (của chúng ta là) dân phương nam
cũng khác với phong tục (của người Trung Hoa là) dân phương bắc.
Từ nhà Triệu, nhà Ðinh, nhà Lý, nhà Trần xây dựng nước ta, (các
vua ta đã cùng các vua Trung Quốc của) nhà Hán, nhà Ðường, nhà
Tống, nhà Nguyên mỗi bên đều làm hoàng đế một phương."
Trong
bài này, chúng ta có thể nhận thấy rằng Nguyễn Trãi đã xem nhà
Triệu là một triều đại Việt Nam, mặc dầu theo phần lớn các sử
gia hiện tại, đó là một triều đại do người Trung Hoa thành lập.
Như thế là vì Triệu Ðà là người đầu tiên áp dụng nguyên tắc nhận
làm chư hầu của Trung Hoa để tránh việc tranh chiến, nhưng bên
trong nước, vẫn tự xưng là hoàng đế, nghĩa là tự xem mình ngang
hàng với nhà vua Trung Hoa.
Dầu
quan điểm của chúng ta đối với nhà Triệu như thế nào thì lập
trường chung của dân tộc Việt Nam về sự độc lập hoàn toàn và chủ
quyền nguyên vẹn của quốc gia cũng đã được nêu rõ trong bài Bình
Ngô Ðại Cáo và được thể hiện rõ rệt với hai màu vàng và đỏ dùng
trong các quốc kỳ được phía người quốc gia chọn lựa. Vậy, hai
màu vàng và đỏ của các quốc kỳ này khác hẳn ý nghĩa của cờ đỏ
sao vàng được tập đoàn CSVN dùng làm quốc kỳ. Hai màu vàng và đỏ
của các quốc kỳ về phía người quốc gia đặt nền tảng trên bài
Bình Ngô Ðại Cáo, một bản văn được một nhà ái quốc Việt Nam viết
lên sau khi nước ta được giải phóng khỏi ách đô hộ của người
Trung Hoa và biểu lộ tinh thần độc lập của dân tộc. Trong khi
đó, cờ đỏ sao vàng của tập đoàn CSVN biểu lộ tinh thần nô lệ,
thần thuộc nước ngoài vì đặt nền tảng trên nguyên tắc tổ chức
của Cộng Sản quốc tế ngày nay được nêu rõ trong thuyết chủ quyền
hạn chế của nhà lãnh tụ Liên Sô Brezhnev, theo đó, Liên Sô có
quyền can thiệp vào việc nội bộ của các nước theo xã hội chủ
nghĩa để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
2. Ý nghĩa đặc biệt của cờ quẻ Ly và cờ
vàng ba sọc đỏ
Ngoài
ý nghĩa chung về màu sắc nói trên đây, cờ quẻ Ly và cờ vàng ba
sọc đỏ còn có những ý nghĩa riêng cũng rất sâu sắc.
a. Ý nghĩa cờ quẻ Ly
Như
chúng tôi đã nói trên đây, Ly là một quẻ của bát quái. Cũng như
màu đỏ, nó tượng trưng cho phương nam. Trong vũ trụ quan của
Việt Nam và Trung Hoa thời trước, màu đỏ thuộc hành hỏa, tượng
trưng cho mặt trời hay lửa; quẻ Ly cũng tượng trưng cho mặt
trời, cho lửa, cho ánh sáng, cho nhiệt lực và về mặt xã hội thì
tượng trưng cho sự văn minh.
Về
hình dạng thì quẻ Ly trên cờ của chánh phủ Trần Trọng Kim gồm
một vạch đỏ liền, một vạch đỏ đứt và một vạch đỏ liền. Do đó,
bên trong quẻ Ly, hiện lên một nền vàng gồm hai vạch liền và một
vạch đứng nối liền hai vạch ấy. Trong Hán văn, đó là chữ Công.
Chữ công này được dùng trong các từ ngữ công nhơn, công nghệ để
chỉ người thợ và nghề biến chế các tài nguyên để phục vụ đời
sống con người. Vậy, ngoài ý nghĩa văn minh rạng rỡ, quẻ Ly còn
hàm ý ca ngợi sự siêng năng cần mẫn và sự khéo léo của dân tộc
Việt Nam trong các ngành hoạt động sản xuất kỹ nghệ.
b. Ý nghĩa cờ vàng ba sọc đỏ
1/ Ý nghĩa chánh trị
Trong
lá quốc kỳ, nền vàng tượng trưng cho quốc gia và dân tộc Việt
Nam nói chung và ba sọc đỏ tượng trưng cho ba kỳ. Vậy, ba sọc đỏ
name trên nền vàng hàm ý là nước Việt Nam gồm cả ba kỳ và dân
tộc Việt Nam gồm người của cả ba kỳ.
Ngày
nay, sự thống nhứt của quốc gia và dân tộc Việt Nam là một điều
không ai phủ nhận được nên người Việt Nam hiện tại không ý thức
được sự gay go của cuộc tranh đấu đòi thống nhứt trong thập niên
1940, nhứt là ở Nam Việt. Trong ngôn ngữ Việt Nam, chữ kỳ có
nghĩa là một phần đất của một quốc gia chớ không hàm ý một lãnh
thổ biệt lập. Các từ ngữ Bắc Kỳ, Nam Kỳ thật sự đã được triều
đình Huế dùng lúc nước Việt Nam chưa bị người Pháp xâm lăng để
chỉ hai địa phương của một quốc gia thống nhứt. Sau khi xâm
chiếm Việt Nam, người Pháp mới tách Nam Kỳ ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam, rồi dùng từ ngữ Trung Kỳ để chỉ phần đất ở hai phía bắc và
nam của kinh đô Huế. Nam Kỳ được Pháp trực tiếp cai trị như một
phần đất của Pháp. Bắc Kỳ và Trung Kỳ được xem là lãnh thổ của
nhà Nguyễn chịu sự bảo hộ của Pháp, nhưng từ năm 1897, Pháp lại
ép nhà vua Việt Nam phải giao quyền đại diện mình cho một Thống
Sứ Pháp thành ra Pháp đã can thiệp vào sự cai trị đất này một
cách trực tiếp hơn ở Trung Kỳ.
Trong hệ thống tổ chức
của Pháp trước Thế Chiến II, ba kỳ của Việt Nam đã được xem như
là ba lãnh thổ biệt lập. Sau Thế Chiến II, kế hoạch của Pháp là
thành lập một Liên Bang Ðông Dương gồm 5 nước là ba kỳ của Việt
Nam, Cam Bu Chia và Lào. Trong 5 nước này, Nam Kỳ là đất mà Pháp
tha thiết muốn nắm giữ dưới quyền thống trị của mình hơn hết vì
nó đã được họ trực tiếp cai trị từ năm 1867, lại là phần đat
thạnh vượng trù phú nhứt. Bởi đó, họ đã nhứt định không chấp
nhận một nước Việt Nam thống nhứt gồm cả ba kỳ. Tháng 3 năm
1946, họ đã cho thành lập Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc. Thiểu số người
Việt Nam theo họ lúc đó đã chống lại quan niệm Việt Nam thống
nhứt một cách mạnh mẽ. Các phần tử quá khích trong nhóm này đã
xem đồng bào gốc Bắc Việt cư trú ở Nam Việt trong thời kỳ đó là
người của một nước địch và thường hành hung đối với các đồng bào
ấy. Trong các cuộc bố ráp hay chận đường xét giấy căn cước, họ
thường bắt người dân nói ba tiếng "Tân Sơn Nhứt", người nào
không nói đúng giọng Miền Nam thì bị họ đánh đập một cách tàn
nhẫn.
Sau
mấy năm tác chiến ở Ðông Dương, người Pháp ý thức rằng họ không
thể áp đặt ở Việt Nam một chế độ thống trị theo khuôn khổ họ đặt
ra. Vì cần dùng sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để có phương tiện tài
chánh đối phó với CSVN, họ phải chấp nhận điều kiện của Hoa Kỳ
là nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam. Bởi đó, họ đã tiếp xúc và
thương thuyết với Cựu Hoàng Bảo Ðại. Tuy nhiên, họ chỉ muốn cho
Việt Nam hưởng một nền độc lập hình thức, và thực quyền vẫn còn
nằm trong tay họ. Mặt khác họ không chấp nhận sự thống nhứt của
Việt Nam và tìm mọi cách giữ riêng Nam Kỳ dưới quyền cai trị
trực tiếp của họ.
Nhờ
được Anh Nguyễn Tôn Hoàn từ Trung Hoa về cho biết về tình thế và
nhận chân rằng chỉ có Cựu Hoàng Bảo Ðại mới có thể đại diện cho
người quốc gia Việt Nam trong cuộc thương thuyết với Pháp nên Xứ
Bộ Nam Việt của Ðại Việt Quốc Dân Ðảng đã phát động phong trào
đòi thi hành giải pháp Bảo Ðại với một nước Việt Nam độc lập và
thống nhứt. Lúc ấy, người Pháp đã đàn áp phong trào này ở Nam
Việt một cách mạnh mẽ. Một số đồng chí của tôi trong đó có Anh
Dương Quang Tiếp (sau này phục vụ trong Quân Ðội và trong ngành
cảnh sát với cấp bực đại tá và đã từ trần trong trại tù cộng
sản) đã bị Pháp bắt và đánh đập tàn nhẫn khi rải truyền đơn đòi
thi hành giải pháp Bảo Ðại.
Tuy
được sự yểm trợ của Hoa Kỳ trong cuộc thương thuyết, Cựu Hoàng
Bảo Ðại không nắm được ưu thế hoàn toàn đối với Pháp vì lúc đó,
Trung Cộng đã thắng thế hơn Trung Hoa Dân Quốc và CSVN có triển
vọng được Trung Cộng giúp đỡ trong tương lai. Người Pháp đã cho
Cựu Hoàng Bảo Ðại biết rằng nếu không thỏa thuận được với ông,
họ sẽ thương thuyết với Hồ Chí Minh. Nhận thấy thời gian không
thuận lợi cho mình, Cựu Hoàng Bảo Ðại đã phải nhượng bộ cho Pháp
về mặt độc lập, nghĩa là chấp nhận để cho Việt Nam ở trong Liên
Hiệp Pháp với những mối liên hệ chặt chẻ với Pháp, nhưng cương
quyết đòi Pháp phải nhận cho Việt Nam thống nhứt. Người Pháp đã
phải nhượng bộ ông về vấn đề này.
Nhưng
ngay đến lúc chánh phủ Pháp chấp nhận cho Nam Kỳ được sáp nhập
vào lãnh thổ Việt Nam, đám thực dân ở Nam Việt vẫn chưa chịu
thua và nhiệt liệt chống lại việc ay. Vì Nam Kỳ được xem là một
lãnh thổ của Pháp mà theo nền pháp lý của Pháp thì mọi quyết
định liên hệ đến qui chế của đất này phải có sự chấp thuận của
một hội nghị địa phương tên là Hội Ðồng Lãnh Thổ Nam Kỳ
(Assemblée Territoriale de Cochinchine), thực dân Pháp đã dự
liệu bỏ ra một số tiền lớn để mua chuộc những người Pháp và
người Nam Kỳ có quốc tịch Pháp được bầu vào Hội Ðồng đó biểu
quyết chống lại việc sáp nhập Nam Kỳ vào lãnh thổ Việt Nam.
Chúng tôi đã biết được kế hoạch này và đã nhiệt liệt chỉ trích
nó trên hai tờ báo Ðuốc Việt (cơ quan ngôn luận bán chánh thức
của Xứ Bộ Nam Việt Ðại Việt Quốc Dân Ðảng) và Thanh Niên (cơ
quan ngôn luận chánh thức của một tổ chức do Xứ Bộ này thành lập
là Thanh Niên Bảo Quốc Ðoàn).
Sự
tố cáo của chúng tôi làm cho người Pháp rất căm tức. Tướng Boyer
de la Tour du Moulin, Ủy Viên Cộng Hòa Pháp ở Nam Kỳ lúc đó đã
mời một đồng chí của tôi là Anh Ðỗ Văn Năng, Thủ Lãnh Thanh Niên
Bảo Quốc Ðoàn, đến gặp ông và bảo rằng: "Xin ông nhớ cho rằng
tôi là người Pháp có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của nước Pháp.
Các hoạt động của đoàn thể ông có hại cho quyền lợi này. Các ông
phải chấm dứt nó hay ít nhứt cũng giảm thiểu nó, nếu không, tôi
buộc lòng phải đối phó một cách quyết liệt. Tôi sẽ rất tiếc nếu
phải làm như vậy, vì tôi lúc nào cũng tôn trọng ông là người mà
tôi nhìn nhận là rất đứng đắn". Anh Ðỗ Văn Năng đã điềm tĩnh trả
lời: "Tôi rất cám ơn ông đã tỏ ra thành thật với tôi, và tôi
thấy có nhiệm vụ cũng phải thành thật đối với ông. Xin ông hiểu
giùm cho rằng ông yêu nước Pháp như thế nào thì tôi yêu nước
Việt Nam như thế ấy và ông có quyết tâm bảo vệ quyền lợi Pháp
như thế nào thì tôi cũng có quyết tâm bảo vệ quyền lợi nước Việt
Nam như thế ấy".
Sau
đó, chúng tôi vẫn tiếp tục chiến dịch tố cáo các âm mưu của thực
dân Pháp ở Nam Việt tìm cách phá hoại các giao ước giữa chánh
phủ Pháp với Cựu Hoàng Bảo Ðại về vấn đề thống nhứt Việt Nam.
Mặt khác, Cựu Hoàng Bảo Ðại lúc ấy còn ở Âu Châu đã cho biết
rằng ông chỉ chịu về nước lãnh đạo chánh phủ nếu việc tái nhập
Nam Kỳ vào lãnh thổ Việt Nam được xác định một cách rõ rệt. Cuối
cùng, các hội viên của Hội Ðồng Lãnh Thổ Nam Kỳ đã không dám
chống hẳn lại việc thống nhứt Việt Nam. Họ chỉ ghi thêm trong
quyết nghị biểu quyết ngày 23 tháng 4 năm 1949 chấp nhận để Nam
Kỳ được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam một điều kiện là nếu có
sự thay đổi trong mối liên hệ giữa Việt Nam với Liên Hiệp Pháp
thì Nam Kỳ sẽ lại được quyền tự quyết định về số phận mình.
Ðám
thực dân Pháp ở Nam Kỳ rất thù hận chúng tôi về việc đã chống
lại họ một cách mãnh liệt về vấn đề thống nhứt Việt Nam. Do đó,
họ ngầm thông đồng với bọn công tác thành của CSVN và để cho một
cán bộ trong bọn công tác này là La Văn Liếm hạ sát Anh Ðỗ Văn
Năng ở Sài Gòn vào những tháng đầu năm 1950. Ngoài anh ra, chắc
hẳn còn có nhiều người Việt Nam khác thuộc các tổ chức ái quốc
đã bị Pháp sát hại vì cuộc tranh đấu cho Việt Nam thống nhứt.
Vậy,
đồng bào gốc Bắc Việt vào cư trú Nam Việt trước 1945 và người
Nam Việt chủ trương thống nhứt đã phải tranh đấu rất gay go, có
người phải thiệt mạng vì chủ trương này. Bởi đó, sọc đỏ thứ ba
trên quốc kỳ tượng trưng cho Nam Việt thật sự đã được tô bằng
máu của nhiều nhà ái quốc và điều này làm cho cờ vàng ba sọc đỏ
có một ý nghĩa chánh trị sâu xa mà nhiều người Việt Nam hiện nay
không thấy được.
Một
quyết định khác của Quốc Trưởng Bảo Ðại khi ông mới về nước năm
1949 cũng có một ý nghĩa chánh trị ít ai được biết là việc chọn
Sài Gòn làm thủ đô. Vì là người kế thừa nhà Nguyễn nên Quốc
Trưởng Bảo Ðại rất muốn đặt chánh phủ thống nhứt của Việt Nam ở
Huế là kinh đô cổ truyền của triều đại mình. Nhưng lúc ấy, nhà
cách mạng lão thành Trần Văn Ân đã bàn với ông là nếu ông lay
Huế làm thủ đô, việc sáp nhập Nam Kỳ vào lãnh thổ Việt Nam không
được thể hiện rõ rệt đối với người Việt Nam và người ngoại quốc
và nền thống nhứt thâu hoạch được một cách gay go sẽ không vững
chắc. Ðặt thủ đô ở Sài Gòn để cho mọi chánh lịnh ban hành trong
toàn quốc Việt Nam phát xuất từ Nam Việt thì tánh cách thống
nhứt của nước Việt Nam từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan hiển hiện
trước mắt và trong tâm thức mọi người thành ra không ai còn hoài
nghi hay phủ nhận sự thống nhứt đó được nữa. Quốc Trưởng Bảo Ðại
tán thành ý kiến trên đây của Ông Trần Văn Ân và quyết định lập
chánh phủ thống nhứt ở Sài Gòn, mặc dầu ông không thích ở Sài
Gòn vì chánh quyền Pháp lúc đó chịu giao Phủ Cao Ủy ở Hà Nội cho
ông mà lại giữ Phủ Cao Ủy ở Sài Gòn là Dinh Norodom (sau này gọi
lại là Dinh Ðộc Lập) thành ra tại Sài Gòn, Phủ Thủ Tướng của
Việt Nam kém bề thế hơn Phủ Cao Ủy của Pháp.
2/ Ý nghĩa triết lý
Về
mặt triết lý, trong bát quái, ba vạch liền là quẻ Càn, tượng
trưng cho trời, cho vua, cho cha và cho quyền lực. Ngày nay,
chúng ta sống trong chế độ dân chủ và quẻ Càn trên quốc kỳ có
thể dùng để tượng trưng cho quốc gia và dân tộc Việt Nam và sức
mạnh của toàn dân ta.
3. Cờ vàng ba sọc đỏ và cờ đỏ sao vàng
a. So sánh cờ vàng ba sọc đỏ và cờ đỏ
sao vàng về mặt thẩm mỹ
Nói
chung thì trên một lá cờ gồm hai màu, một đậm, một lợt thì nếu
màu đậm quá nhiều và làm nền còn màu lợt quá ít và làm dấu hiệu
phụ thuộc thì màu lợt bị màu đậm tràn ngập và lá cờ trở thành
tối. Trái lại, nếu màu lợt nhiều hơn và làm nền còn màu đậm ít
hơn và làm dấu hiệu phụ thuộc thì màu đậm in rõ lên nền màu lợt
và cả hai màu đều sáng chói. Quốc kỳ của tập đoàn CSVN gồm một
ngôi sao vàng nhỏ trên nền đỏ, màu vàng của ngôi sao bị nền đỏ
sậm hơn tràn ngập nên chỉ hiện lean như một tia sáng yếu ớt và
cả lá cờ xem rất tối. Quốc kỳ của người quốc gia chúng ta trái
lại, dùng màu vàng làm nền và ba sọc đỏ sậm hơn đã hiện rõ lên
nền vàng này thành ra cả hai màu đều tươi sáng. Vậy, chỉ xét
riêng về mặt thẩm mỹ, quốc kỳ của chúng ta tươi đẹp hơn quốc kỳ
của tập đoàn CSVN rất nhiều. Ðiều đó cũng không có chi lạ. Quốc
kỳ của chúng ta do một họa sĩ nổi tiếng vẽ ra, còn cờ của tập
đoàn CSVN chỉ là sự mô phỏng nô lệ cờ một đế quốc có chủ trương
sắt máu và không có ý thức gì về cái đẹp.
b.
So sánh cờ vàng ba sọc đỏ với cờ đỏ sao vàng về mặt triết lý
Nếu
lấy nền triết lý cổ truyền của dân tộc Việt Nam làm căn bản để
phán đoán thì cờ vàng ba sọc đỏ của chúng ta cũng có một ý nghĩa
tốt đẹp hơn cờ đỏ sao vàng nhiều. Theo quan niệm cổ của dân tộc
Việt Nam, màu vàng thuộc hành thổ và màu đỏ thuộc hành hỏa và vì
hỏa sanh thổ nên hai màu này rất hợp với nhau. Nhưng trên cờ đỏ
sao vàng, màu đỏ quá nhiều, màu vàng quá ít, cũng như khối lửa
lớn hay một ánh nắng gay gắt nung đốt một hòn đất nhỏ thành ra
hòn đất bị khô cằn đi. Trong khi đó, trên cờ vàng ba sọc đỏ, ba
sọc đỏ nhỏ như những tia nắng rọi xuống một mặt đất rộng rãi làm
cho mặt đất này ấm áp và có điều kiện thuận lợi cho cây cỏ mọc
lên được.
Ý
nghĩa về triết lý trên đây thật ra cũng phù hợp với bản chất của
chế độ chánh trị hai bên. Chế độ cộng sản là một chế độ độc tài
toàn diện đè ép nhơn dân, phủ nhận các quyền lợi căn bản của con
người, làm thui chột các sáng kiến nên không thể phát triển
được. Dưới quyền của tập đoàn CSVN, nước Việt Nam đã trở thành
một mảnh đất cằn cỗi không sinh khí và xã hội Việt Nam lọt vào
sự đói khổ cùng cực. Chế độ quốc gia dung nạp sự tự do, tôn
trọng các quyền lợi căn bản của con người và khuyến khích sáng
kiến nên mặc dầu các nhà lãnh đạo về phía quốc gia đã phạm nhiều
lỗi lầm trầm trọng, mặc dầu CSVN đã gây nhiều tàn sát và phá
hoại, phần lãnh thổ Việt Nam do người quốc gia điều khiển đã là
một mảnh đất đầy sinh khí và nhơn dân Việt Nam trên lãnh thổ này
đã hưởng một nếp sống tương đối tự do và trù phú hơn.
D. VẤN ÐỀ THAY ÐỔI QUỐC KỲ
1. Các lập luận đưa ra để phủ nhận cờ
vàng ba sọc đỏ
Sau
năm 1975, trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại có một số người chủ
trương phủ nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ. Trong số những người này,
có kẻ bảo rằng đó là cờ thua trận, có kẻ bảo rằng đó là một lá
cờ của một chế độ tham nhũng thúi nát, có kẻ cho rằng đó là cờ
của Bảo Ðại, cờ của Ông Ngô Ðình Diệm hay cờ của Ông Nguyễn Văn
Thiệu là những người lãnh đạo mà họ cho là không xứng đáng.
2. Quan niệm chung của người các nơi
trên thế giới về quốc kỳ
Thật
sự thì quốc kỳ một nước thường có ý nghĩa sâu xa liên hệ đến văn
hóa và lịch sử dân tộc. Dầu cho nó do ai chọn lựa và chọn lựa
như thế nào thì một khi đã được dùng làm quốc kỳ, nó cũng không
còn có thể được xem là của cá nhơn nào mà phải được xem là của
toàn thể nhơn dân trong nước. Bởi đó, số phận quốc kỳ không thể
cột buộc vào số phận một nhà lãnh đạo, vào những ưu khuyết điểm
của một chế độ hay vào sự thắng bại trong một cuộc tranh đấu.
Trong lịch sử thế giới, không ai chủ trương phủ nhận quốc kỳ của
mình hay thay đổi nó vì các lý do trên. Việc thay đổi quốc kỳ
chỉ được đặt ra khi trong nước có những quan niệm chánh trị mới
hoàn toàn khác quan niệm làm căn bản cho chế độ quốc gia.
Như
chúng tôi đã nói trên đây, lá quốc kỳ đầu tiên được dùng trên
thế giới là cờ tam sắc của Pháp. Nó là kết quả một sự tương
nhượng giữa hoàng gia Pháp và nhơn dân thị xã Paris. Sau đó, nhà
vua Louis thứ XVI của Pháp đã chống lại Cách Mạng và bị xử tử,
nhưng chánh phủ cách mạng Pháp vẫn chánh thức lấy lá cờ tam sắc
làm quốc kỳ.
Lúc
dòng vua chánh thống của Pháp được đưa lên ngôi báu trở lại, họ
đã dùng lá cờ trắng có hoa huệ vàng của hoàng gia làm quốc kỳ,
nhưng cờ này chỉ được dùng từ năm 1816 đến năm 1830. Với cuộc
Cách Mạng 1830, dòng Orléans được đưa lên thay dòng vua chánh
thống và cờ tam sắc đã được dùng làm quốc kỳ trở lại.
Năm
1848, dòng Orléans lại bị lật đổ. Một số nhà cách mạng tả khuynh
thời đó đã chủ trương dùng cờ đỏ thay cờ tam sắc làm quốc kỳ,
nhưng sau một bài diễn văn cảm động của thi hào Lamartine, người
Pháp đã quyết định giữ cờ tam sắc. Lúc ấy, người Pháp lập Ðệ Nhị
Cộng Hòa. Nhưng người đầu tiên được bầu làm Tổng Thống của nền
cộng hòa này lại là cháu của Hoàng Ðế Napoléon thứ I. Năm 1850,
ông đảo chánh để lên ngôi hoàng đế với danh hiệu Napoléon thứ
III. Ðến năm 1870, vì gây chiến với Ðức và bị thảm bại nên ông
phải thoái vị.
Quốc
Hội Pháp được bầu vào lúc đó gồm nhiều người bảo hoàng muốn tái
lập chế độ quân chủ và tôn làm quốc vương Bá Tước Chambord,
người lãnh đạo dòng vua chánh thống từ năm 1836. Nhưng Bá Tước
Chambord đòi hỏi phải bỏ cờ tam sắc để lấy cờ trắng thêu hoa huệ
vàng làm quốc kỳ. Những người bảo hoàng nhiệt tâm nhứt đều biết
rằng quốc dân Pháp lúc đó không chấp nhận cờ trắng thêu hoa huệ
vàng thay cờ tam sắc nên cố thuyết phục Bá Tước Chambord bỏ ý
định của ông. Thống Chế Mac Mahon là một lãnh tụ bảo hoàng đã
bảo rằng: "Nếu dùng lá cờ trắng thay lá cờ tam sắc thì không cần
ai bấm cò, súng cũng tự nổ". Vì Bá Tước Chambord vẫn khăng khăng
phủ nhận lá cờ tam sắc nên cuối cùng phe bảo hoàng phải từ bỏ
chủ trương tái lập chế độ quân chủ.
Thời
Thế Chiến II, Thống Chế Pétain đã chịu đầu hàng người Ðức trong
khi Tướng De Gaulle chạy sang Anh kêu gọi người Pháp kháng
chiến. Lúc ấy, có hai lực lượng Pháp đối đầu nhau và cả hai đều
dùng lá cờ tam sắc. Ðể phân biệt hai bên, Tướng De Gaulle chỉ
dùng một cây thánh giá Lorraine gồm hai nhánh ngang và một nhánh
dọc đặt trên cờ để làm hiệu kỳ cho Lực Lượng Pháp Quốc Tự Do
(LLPQTD) của ông. Ðến khi giải phóng được nước Pháp, ông đã
không vì cớ cờ tam sắc đã bị Thống Chế Pétain dùng trong khi đầu
hàng Ðức để xin thay đổi nó. Do đó, cờ tam sắc vẫn là quốc kỳ
của Pháp và lá cờ có dấu thập tự Lorraine chỉ được xem là hiệu
kỳ của LLPQTD.
Nói
chung lại thì từ năm 1789, ở Pháp có ba quan niệm chánh trị căn
bản thể hiện bằng ba lá cờ: quan niệm quân chủ chánh thống với
cờ trắng thêu hoa huệ vàng, quan niệm cách mạng tả phái với cờ
đỏ và quan niệm dân chủ tự do với cờ tam sắc. Cờ tam sắc biểu
tượng được lý tưởng chung của đa số dân Pháp nên đã được chọn
làm quốc kỳ và các mưu toan thay đổi nó đều không thành tựu
được.
3. Nhiệm vụ người quốc gia Việt Nam đối
với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ
Người
quốc gia Việt Nam ta may mắn có một lá quốc kỳ rất đẹp và oai
hùng. Phải thấy cờ này bay phấp phới trên một nền trời trong
xanh mới thấy hết cái đẹp oai hùng đó. Mặt khác, cờ vàng ba sọc
đỏ mang nhiều ý nghĩa triết lý và chánh trị tuyệt hảo, hơn hẳn
lá cờ đỏ sao vàng chống đối lại nó. Từ khi Quốc Gia Việt Nam
được công nhận là một nước độc lập, cờ vàng ba sọc đỏ đã được
nhiều quốc gia trên thế giới biết. Tại Việt Nam, nó đã là biểu
tượng hội tập nhiều triệu chiến sĩ quân nhơn cũng như dân sự
tranh đấu cho sự tự do của dân tộc Việt Nam. Nó đã được dùng để
phủ lên áo quan của nhiều trăm ngàn người đã chết vì Tổ Quốc
Việt Nam. Như vậy, nó là một bảo vật thiêng liêng đối với mọi
người chúng ta.
Hiện
nay, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ không còn được chánh thức dùng
bên trong nước Việt Nam, nhưng mọi người Việt Nam ở quốc nội đều
biết rằng nó là lá cờ tượng trưng cho nền độc lập và tự do của
Tổ Quốc, chống lại chế độ cộng sản tàn ác, phi nhơn và nô lệ
ngoại bang. Bên ngoài Việt Nam, nó cũng được người ngoại quốc
xem là biểu tượng của phía người Việt Nam chống lại Cộng Sản.
Không biểu tượng nào khác có thể thay thế cờ vàng ba sọc đỏ về
các mặt này. Vậy, việc tỏ lòng tôn trọng quốc kỳ nền vàng ba sọc
đỏ và dùng nó một cách rộng rãi ở nơi nào có người quốc gia Việt
Nam là một công cuộc đóng góp lớn vào việc giải phóng đất nước
khỏi ách Cộng Sản.
Việc
một hội đoàn Việt Nam dùng làm hiệu kỳ một lá cờ nền vàng ba sọc
đỏ trên có biểu tượng riêng cho mình là một điều hữu ích cho
công cuộc tranh đấu chống lại Cộng Sản. Khi Liên Minh Dân Chủ
Việt Nam (LMDCVN) áp dụng nguyên tắc trên đây và thêm 5 ngôi sao
5 nhánh màu xanh trên cờ vàng ba sọc đỏ để làm đoàn kỳ của mình,
một số người đã chỉ trích vì cho rằng như vậy là bất kính đối
với quốc kỳ. Nhưng sự thật không phải như vậy. Việc dùng một
biểu hiệu thêm vào quốc kỳ để làm hiệu kỳ cho một tổ chức tranh
đấu cho Tổ Quốc là một điều mà người các nước đã từng làm. Như
trên đây đã nói, khi thành lập LLPQTD để chống lại chánh phủ
Pétain, Tướng De Gaulle đã dùng một cây thập tự Lorraine thêm
vào quốc kỳ Pháp. Vậy, việc đoàn kỳ của LMDCVN là một quốc kỳ
trên có 5 ngôi sao 5 nhánh màu xanh chỉ hàm ý rằng LMDCVN là một
tổ chức của VNCH tranh đấu dưới lá quốc kỳ Việt Nam, và 5 ngôi
sao 5 nhánh màu xanh chỉ để phân biệt nó với những tổ chức tranh
đấu khác nhưng cùng một mục tiêu chung.
Trong
khi chưa giải phóng được Việt Nam và chưa làm cho nó được chánh
thức dùng trở lại trên toàn cõi Việt Nam, nhiệm vụ người Việt
Nam ở hải ngoại là làm cho cờ này vẫn được sử dụng ở mọi nơi có
người quốc gia Việt Nam, đặc biệt là trong những hoạt động có
liên hệ đến người ngoại quốc. Về mặt này, chúng ta phải ghi công
cố Ðại Tá Ðỗ Ðăng Công, nguyên Tổng Thư Ký của Phân Bộ Việt Nam
trong Liên Minh Thế Giới Chống Cộng (LMTGCC). Sau năm 1975, lúc
CSVN vừa chiếm được Miền Nam Việt Nam, ban tổ chức của liên minh
này đã không còn dùng cờ vàng ba sọc đỏ trong các phiên họp của
họ. Nhưng bằng những lời lẽ hợp lý, cương quyết và cảm động, cố
Ðại Tá Ðỗ Ðăng Công đã làm cho họ thay đổi ý kiến và từ đó, quốc
kỳ của chúng ta đã được long trọng dùng chung với cờ của các
nước hội viên khác của LMTGCC ở mọi nơi.
Ngoài
ra, còn có những người khác cũng có những công tác tương tự. Khi
đến thuyết trình về vấn đề Việt Nam ở Viện Ðại Học OSU (Oregon
State University) tại Cornvallis ngày 30 tháng 11 năm 1987, tôi
được biết rằng các anh chị em sinh viên Việt Nam ở Viện Ðại Học
này đã hai lần tranh đấu với ban giám đốc để cho cờ vàng ba sọc
đỏ vẫn được treo với tư cách là quốc kỳ Việt Nam ở một hội
trường trưng bày cờ các nước. Phía Canada thì Cộng Ðồng Việt Nam
đã tranh đấu để cho thị xã Toronto chấp nhận để cho quốc kỳ Việt
Nam được treo lên một tuần lễ mỗi năm tại kỳ đài của thị xã vào
dịp 30 tháng 4. Tại Los Angelès (California) thì Cộng Ðồng Việt
Nam đã được chấp nhận cho xây dựng một kỳ đài để quốc kỳ Việt
Nam sẽ được treo liên tục suốt năm. Tại San Jose (California),
Cộng Ðồng Việt Nam cũng sẽ xây dựng một kỳ đài tương tự*. Ngoài
ra, trong dịp Tết Mậu Thìn, quốc kỳ Việt Nam đã được treo trong
suốt một tuần lễ ở trụ sở các tỉnh Santa Clara, thị xã San José
và thị xã Milpitas.
Có
lẽ trên thế giới còn có những nơi mà đồng bào Việt Nam đã tranh
đấu và thành công trong việc làm cho quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ
được cộng đồng quốc tế chấp nhận treo lên mà chúng tôi không
được biết nên không nêu ra đây được. Riêng Ủy Ban Quốc Tế Yểm
Trợ Việt Nam Tự Do (UBQTYTVNTD) thì dĩ nhiên là chánh thức công
nhận quốc kỳ này. Ngày 4 tháng 12 năm 1986, khi tổ chức buổi hội
thảo công khai đầu tiên của Ủy Ban, Ông Chủ Tịch Paul
Vankerkhoven đã đích thân kiểm soát việc trang trí phòng hội
thảo. Tại phòng này, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ đã được treo
chung với cờ các quốc gia trong Cộng Ðồng Âu Châu và đặc biệt là
được treo ở chỗ danh dự là ngay bên hữu cờ Bỉ là cờ của nước chủ
nhà. Chắc chắn là trong mọi cuộc hội họp công cộng của
UBQTYTVNTD mà có treo cờ thì quốc kỳ của chúng ta sẽ được treo
chung với cờ các nước khác.
Việc
quốc kỳ của chúng ta lần lần tái hiện bên cạnh cờ các quốc gia
khác trên thế giới là một dấu hiệu cho thấy rằng công cuộc tranh
đấu để giải phóng Việt Nam khỏi ách Cộng Sản có những tiến triển
khả quan. Hiện nay, quốc kỳ này là biểu hiệu hội tập mọi người
quốc gia Việt Nam: dầu có bất đồng ý kiến, dầu có những hiềm
khích đối với nhau, mọi người quốc gia đều nên tôn trọng quốc kỳ
và nếu mọi người đều quyết tâm tranh đấu chung nhau hay ít nhứt
cũng song song nhau thì một ngày không xa lắm, quốc kỳ nền vàng
ba sọc đỏ sẽ phấp phới bay trên mọi nóc nhà Việt Nam từ mũi Cà
Mau cho đến ải Nam Quan.
Hiện nay,
người Việt hải ngoại sống rải rác khắp các nơi trên thế giới.
Không kể dân số trong nước, người Việt hải ngoại ít nhất cũng
gần 3 triệu người. Riêng tại thành phố Toronto và vùng phụ cận
khoảng 80,000 người. Ở khắp mọi nơi, người Việt họp thành
những cộng đồng đang càng ngày càng lớn mạnh. Mỗi cộng đồng
đều có một biểu tượng riêng. Nhìn vào biểu tượng đó, người ta
biết nguồn gốc, văn hóa, căn tính của mỗi cộng đồng. Ngược
lại, từ nguồn gốc, văn hóa của cộng đồng, người ta cần tìm một
mẫu số chung để chọn biểu tượng cho cộng đồng. Vậy mẫu số
chung để có thể trở thành biểu tượng của cộng đồng người Việt
hải ngoại hiện nay là gì?
Trước hết,
cộng đồng người Việt hải ngoại gồm có các thành phần sau đây:
1) Những người ra đi trước biến cố 30-4-1975. 2) Những người
vượt biên sau biến cố 30-4-1975. 3) Những người được bảo lãnh.
4) Những người xuất khẩu lao động.
Trước năm
1975, hai đợt người ra đi chính: Đợt thứ nhất gồm những người
do nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương tuyển mộ và đưa sang Pháp
từ năm 1915 đến năm 1919, khoảng 100,000 người trong đó khoảng
một nửa là lính chiến đấu, một nửa là lính thợ (ouvrier non
spécialisé gọi tắt là ONS). (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận
tập 3, Paris: Nxb. Tân Á, 2002, tr. 1673.) Sau thế chiến thứ
nhất, một số trở về và đa số ở lại Pháp. Đợt thứ hai là những
du học sinh từ năm 1949 đến năm 1975, không phải chỉ đi Pháp
mà còn đến các nước khác trên thế giới như Hoa Kỳ, Canada,
Anh, Úc, New Zealand…Khi xảy ra biến cố 30-4-1975, hầu hết đều
ở lại nước ngoài.
Sau biến cố
30-4-1975, nhiều người vượt biên tỵ nạn cộng sản bằng đường
biển hay bằng đường bộ. Cuộc vượt biên kéo dài từ 1975 đến
1995, có thể chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ
1975 đến 1989 là năm Cao uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) ra
lệnh khóa sổ các trại tỵ nạn. Giai đoạn thứ hai từ 1989 đến
1995. Từ năm 1996, CUTNLHQ đóng cửa vĩnh viễn các trại tỵ nạn.
Cuộc vượt biên trong giai đoạn thứ hai khó khăn hơn vì phải
trải qua “thanh lọc” tư cách tỵ nạn, mới được nhận đi định cư.
Tổng số người vượt biên đến định cư được ở nước ngoài lên đến
gần 1 triệu người và số người tử nạn trên đường vượt biên,
không đến được miền đất tự do, khoảng 500,000 người. (Các số
liệu nầy theo Người Việt Online ngày 28-10-2004.)
Những người
vượt biên, một khi đã ổn định cuộc sống ở một nước khác, bắt
đầu bảo lãnh thân nhân ra nước ngoài. Đó là những người ra đi
theo chương trình O.D.P. (Orderly Departure Program). Ngoài
ra, còn có một số khá lớn những người đi theo chương trình HO
là chữ mà người Việt thường dùng để gọi chương trình The
Special Released Reeducation Center Detainee Resettlement
Program (Chương trình đặc biệt tái định cư cựu tù cải tạo được
phóng thích), bắt đầu từ năm 1989, do chính phủ Hoa Kỳ chấp
nhận cho các nhân viên và quân nhân chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa bị ba năm tù cộng sản trở lên và gia đình, tái định cư tại
Hoa Kỳ.
Cuối cùng,
cộng đồng người Việt hải ngoại còn có những sinh viên du học
hay công nhân xuất khẩu lao động qua Liên Xô và Đông Âu, xin
tỵ nạn ở các nước ngoài khi chế độ cộng sản sụp đổ tại Liên Xô
và các nước Đông Âu năm 1991. Số liệu trong nước cho biết số
nầy lên đến 300,000 người. Sau đó, nhiều người trong số nầy
tìm cách chuyển qua sinh sống ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
Như vậy, dù ra
đi trước năm 1975, dù vượt biên sau năm 1975, dù bảo lãnh, HO
hay xuất khẩu lao động, người Việt ở hải ngoại nói chung đều
là những người không muốn sống dưới chế độ cộng sản Việt Nam,
ra nước ngoài để tìm một đời sống tự do mới ở nước ngoài, có
thể nói chung là những người tỵ nạn cộng sản hoặc bất đồng với
chế độ cộng sản. Nếu không bất đồng với chế độ cộng sản, thì
người ta đã về nước sinh sống sau năm 1975, khi đất nước do
chế độ cộng sản kiểm soát. Có một điểm cần lưu ý là sau năm
1975, nếu có người nào nói rằng vượt biên hay ra nước ngoài vì
lý do kinh tế, thì chắc chắn Cao uỷ tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đã
trả người đó về Việt Nam, hoặc chính các nước bảo trợ cũng
không chấp nhận cho đến tỵ nạn kinh tế.
Tuy nhiên, giả
thiết như, xin nhấn mạnh chỉ giả thiết mà thôi, có một người
can đảm tự nhận ra đi vì lý do kinh tế, có nghĩa là chế độ
cộng sản ở trong nước không tạo được điều kiện để cho người đó
sinh sống, hay nói cách khác người đó hoặc bất đồng với chế độ
cộng sản, hoặc là nạn nhân kinh tế của chế độ cộng sản, nên
mới kiếm cách bỏ ra nước ngoài sinh sống. Vậy người đó không
phải là nạn nhân chính trị, thì cũng có thể xem là nạn nhân
kinh tế của chế độ cộng sản.
Như thế, có
thể nói tính chất chung của người Việt hải ngoại là những
người tỵ nạn cộng sản, dù ra đi từ Bắc hay Nam Việt Nam, dù
trước hay sau năm 1975, dù vượt biên hay bảo lãnh, dù là vì lý
do chính trị hay lý do kinh tế. Vậy biểu tượng chung cho người
Việt hải ngoại, dầu ra nước ngoài vì bất cứ lý do nào, chắc
chắn không phải là lá Cờ đỏ sao vàng, biểu tượng của chế độ đã
gây ra cảnh tỵ nạn.
Trên thế giới,
lá Cờ đỏ sao vàng chỉ được treo trong các tòa đại sứ hay lãnh
sự Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN). Các tòa đại
sứ hay lãnh sự CHXHCNVN ở hải ngoại nói cho cùng chỉ đại diện
cho nhà cầm quyền Hà Nội, phụ trách công việc giao dịch của
chế độ cộng sản, chứ chẳng phải là đại diện cho người Việt ở
hải ngoại. Hiện nay chế độ CHXHCNVN hầu như không có hay có
rất ít công dân ở hải ngoại. Đồng bào Việt Nam ở hải ngoại đều
là những người tỵ nạn cộng sản, trốn tránh cộng sản như trốn
tránh ác quỷ, và người Việt hải ngoại đều đã nhập quốc tịch
các nước sở tại, tức là công dân các nước ngoài, chẳng cần gì
đến sự giúp đỡ của các tòa đại sứ hay lãnh sự CHXHCNVN.
Ví dụ một
người gốc Việt, có quốc tịch Canada hay Hoa Kỳ, tức công dân
của hai nước nầy, đi du lịch, làm ăn buôn bán tại các nước
trên thế giới, nếu có vấn đề gì trở ngại hay tai nạn nào, thì
tòa đại sứ các nước nầy sẽ can thiệp, giúp đỡ hay bênh vực cho
công dân của mình, chứ đâu cần đến tòa đại sứ cộng sản Việt
Nam.
Tại tòa đại sứ
CSVN, thỉnh thoảng có người đến làm giấy tờ xin đi Việt Nam,
không phải với tư cách công dân Việt xin về nước, mà với tư
cách công dân nước ngoài đến liên hệ với tòa đại sứ của nước
mà người đó muốn đi du lịch mà thôi. Cũng giống như chúng ta
muốn du lịch các nước Âu Châu hay Nam Mỹ, chúng ta phải đến
liên hệ với tòa đại sứ các nước nầy.
Lá cờ tượng
trưng cho những người tỵ nạn cộng sản, dù là tỵ nạn chính trị
hay tỵ nạn kinh tế, không gì khác hơn là biểu tượng của những
nạn nhân cộng sản. Thích hợp nhất cho biểu tượng nầy chính là
lá Cờ vàng ba sọc đỏ, vì lá cờ nầy đã từng là lá cờ trên toàn
cõi Việt Nam, cả Bắc và Nam Việt Nam từ năm 1948, chứ không
phải riêng của miền Nam sau năm 1954, và lá cờ nầy cũng là nạn
nhân của chế độ cộng sản Việt Nam.
Hiện nay, nơi
nào có cộng đồng người Việt, thì nơi đó có lá Cờ vàng ba sọc
đỏ tung bay. Cộng đồng người Việt sinh sống khắp nơi trên thế
giới, bao quanh quả địa cầu. Suốt ngày (24/24), không chỗ nầy
thì chỗ khác, vòng quanh quả đất, khi nào cũng có lá Cờ vàng
ba sọc đỏ phất phới dưới ánh mặt trời. Như thế, thực tế cho
thấy rằng mặt trời tỏa sáng quanh năm trên lá Cờ vàng ba sọc
đỏ, nếu chúng ta không quá hãnh tiến để nói rằng MẶT TRỜI
KHÔNG BAO GIỜ LẶN BÊN TRÊN LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ.
Trần Gia
Phụng
Lá Cờ
Chính Nghĩa
*Trần Gia Phụng
Lời người viết: Sau khi bài “Mặt
trời không bao giờ lặn bên trên lá Cờ vàng ba sọc đỏ”
được đăng trên báo và đưa lên web, có một độc giả tự
xưng là du học sinh Việt Nam gởi e-mail cho người viết
và đưa ra hai câu hỏi:
1)
Tại sao người viết nói rằng lá Cờ vàng ba sọc đỏ xuất
hiện năm 1948 chứ không phải 1954 khi đất nước bị chia
hai?
2)...Nếu người viết bảo rằng lá Cờ vàng ba sọc đỏ là
lá cờ chính nghĩa thì người viết giải thích như thế
nào về biến cố 1975? Xin cảm ơn anh du học sinh đã đặt
câu hỏi. Sau đây là bài trả lời câu hỏi thứ nhất. Tôi
sẽ trả lời câu hỏi thứ hai trong số báo sau.
Năm
1945, sau thế chiến thứ hai, Hồ Chí Minh và mặt trận
Việt Minh (VM), một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng Sản
Đông Dương (CSĐD), nhanh tay chiếm được chính quyền.
Vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945) quyết định thoái vị và
trao quyền lại cho mặt trận VM. Ngày 2-9-1945, Hồ Chí
Minh tuyên bố thành lập chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa và ra mắt chính phủ lâm thời, chọn cờ của mặt trận
VM là Cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ.
Không
đầy mười ngày sau, trung ương đảng CSĐD họp tại Hà Nội
ngày 11-9-1945 đưa ra chủ trương VM độc quyền cai trị
đất nước. (Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam de
1940 à 1952, Paris: Éditions du Seuil, 1952, tr. 143.)
[Về sau, đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục việc nầy qua
điều 4 hiến pháp năm 1992.]
Để
bảo đảm độc tôn quyền lực, về đối nội, VM thực hiện kế
hoạch mà VM gọi là “giết tiềm lực” hay “tiêu diệt tiềm
lực”, tức là tiêu diệt tất cả các đảng phái và tất cả
các thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, tất cả những
người có khả năng nhưng không cộng tác với VM, có thể
nguy hiểm cho VM hay trở thành đối thủ của VM trong
tương lai.
Về
đối ngoại, VM nhượng bộ các lực lượng nước ngoài để
rảnh tay đối phó với các lực lượng đối
kháng trong nước, nhằm duy trì việc độc quyền chính
trị. Khi Pháp gởi lực lượng, theo
quân Anh tái chiếm miền Nam,
rồi tiến ra Bắc nhằm thay thế quân Trung Hoa Quốc Dân
Đảng, VM liên tục nhượng bộ. Thấy VM yếu kém, ngày
18-12-1946, Pháp buộc VM phải giao quyền kiểm soát an
ninh Hà Nội cho Pháp. Hồ Chí Minh họp trung ương đảng
CSĐD tại Vạn Phúc (Hà Nội) trong hai ngày 18 và
19-12-1946, quyết định bất ngờ tấn công Pháp tối
19-12-1946. (Một nhóm tác giả, Từ điển bách khoa quân
sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2004, tt.
503-504.) Không thể để Pháp bắt và cũng không thể bỏ
trốn nhục nhã, quyết định của hội nghị Vạn Phúc nhằm
tạo cơ hội cho các nhà lãnh đạo VM và đảng CSĐD thoát
thân ra khỏi Hà Nội một cách chính thức. Thế là chiến
tranh không tuyên chiến xảy ra.
Trong khi chiến tranh tiếp diễn, VM tiếp tục chủ
trương “giết tiềm lực”. Trong các năm 1945, 1946, 1947
trên toàn quốc, VM giết khoảng 100,000 người ở tất cả
các cấp từ trung ương xuống tới địa phương làng xã.
Đứng đầu danh sách nầy là những nhân vật như Phạm
Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Huỳnh
Phú Sổ, Trương Tử Anh …
Vì
bản năng sinh tồn, những người theo chủ nghĩa dân tộc
không cộng sản phải trốn tránh, bỏ ra nước ngoài, hoặc
phải đến sinh sống tại vùng do Pháp tái chiếm khi Pháp
trở lại Đông Dương, hay chẳng đặng đừng cộng tác với
Pháp để thành lập tổ chức hành chánh địa phương tạm
thời do Pháp bảo trợ, chống lại Việt Minh.
Ở Nam
Kỳ, chính phủ Cộng hòa Lâm thời Nam Kỳ được thành lập
tháng 6-1946, đổi thành chính phủ Nam Kỳ tự trị tháng
2-1947. Cũng trong tháng 2-1947, Pháp thành lập Hội
đồng chấp chánh lâm thời Trung Kỳ tại Huế. Ra tới Hà
Nội, Pháp thành lập Uỷ ban Lâm thời Hành chánh và Xã
hội, còn được gọi là Hội đồng An dân tháng 5-1947.
Tháng 10-1947, ông Nguyễn Văn Xuân, thiếu tướng trong
quân đội Pháp, đã từng được Hồ Chí Minh cử làm quốc vụ
khanh trong chính phủ VNDCCH ngày 2-9-1945, đứng ra
thành lập chính phủ lâm thời Nam Kỳ.
Việt
Minh kết án chung tất cả các tổ chức nầy là Việt gian,
tay sai thực dân Pháp. Tuy nhiên nếu những người nầy
không hợp tác với Pháp để chống VM cộng sản, bảo toàn
sinh mạng của chính họ, thì không lẽ họ ngồi yên để
chờ đợi VM tới bắt giết, như đã từng bắt giết Phạm
Quỳnh, Ngô Đình Khôi? Nếu Nguyễn Văn Xuân, một tướng
lãnh trong quân đội Pháp, là tay sai của thực dân
Pháp, thì tại sao Hồ Chí Minh lại cử làm
quốc vụ khanh trong chính phủ
của Hồ Chí Minh?
2.- CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ XUẤT
HIỆN
Trong
khi đó, trong một chuyến công du cho chính phủ VM qua
Trung Hoa tháng 3-1946, theo lời cựu hoàng Bảo Đại, cố
vấn chính phủ VM, ông bị phái đoàn VM bỏ rơi ở lại Côn
Minh (Kunming) tháng 4-1946. (Bảo Đại, Con rồng Việt
Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tr. 242.) Cựu
hoàng tự ý thức rằng VM bỏ rơi ông có nghĩa là VM
không còn cần đến ông nữa, nên cựu hoàng bắt đầu tách
ra khỏi chính phủ VM, qua trú ngụ ở Hồng Kông. Các
lãnh tụ trong các tổ chức hay đảng phái theo chủ nghĩa
dân tộc dần dần tập họp chung quanh cựu hoàng Bảo Đại,
yêu cầu cựu hoàng ra cầm quyền trở lại, nhằm tranh đấu
giành độc lập và thống nhất đất nước.
Về
phía Pháp, sau một thời gian thương thuyết với VM
nhưng thất bại, Pháp thay đổi chính sách từ tháng
9-1947, quay qua thương thuyết với cựu hoàng Bảo Đại
để tìm một giải pháp mới. Cao uỷ Pháp tại Đông Dương
là Émile Bollaert gặp cựu hoàng Bảo Đại trên một chiếc
tàu thả neo ở vịnh Hạ Long ngày 6-12-1947. Hai bên
đồng ký bản thông cáo chung theo đó Pháp hứa trao trả
độc lập cho Việt Nam và ngược lại Việt Nam hứa sẽ cộng
tác và ưu tiên sử dụng chuyên viên Pháp trong công
cuộc kiến thiết đất nước.
Sau
cuộc nói chuyện sơ khởi trên đây, Bảo Đại qua Pháp
tiếp tục vận động. Để tạo cơ chế hành chánh chung có
thể nói chuyện với Pháp, khi trở về lại Hồng Kông, cựu
hoàng uỷ cho Nguyễn Văn Xuân lập chính phủ Trung ương
Lâm thời Việt Nam. Nguyễn Văn Xuân được Hội nghị các
giới cầm quyền do Pháp bảo trợ và đại diện các đoàn
thể, các đảng phái tại ba miền Bắc Trung, Nam Việt
Nam, họp tại Sài Gòn ngày 20-5-1948, đồng ý ủng hộ làm
thủ tướng.
Ngày
1-6-1948 Nguyễn Văn Xuân chính thức công bố chính phủ
Trung ương Lâm thời Việt Nam gồm đầy đủ đại diện Bắc,
Trung và Nam Việt Nam. Hôm sau, 2-6-1948, thủ tướng
Nguyễn Văn Xuân công bố “Pháp quy lâm thời” (Statut
provisoire), quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ ở giữa, quốc
ca là bài “Tiếng gọi sinh viên”, sau đổi là “Tiếng gọi
thanh niên” của Lưu Hữu Phước.
Khi
chuẩn bị lập chính phủ, Nguyễn Văn Xuân đã cho
trưng cầu ý kiến về việc chọn quốc kỳ. Lúc
đó có năm lá cờ được đề nghị để chọn làm quốc kỳ, gồm
có ba lá cờ do uỷ ban đại diện ba miền Bắc, Trung và
Nam phần đưa ra, và hai lá cờ do đại diện Phật Giáo
Hòa Hảo và đạo Cao Đài đề nghị. Cuối cùng
lá cờ do đại diện miền Nam đề
nghị được chấp thuận vì có ý nghĩa nhất, lại không
phức tạp, dễ thực hiện.
Quốc kỳ mới
do thủ tướng Nguyễn Văn Xuân công bố hình chữ nhật,
chiều cao bằng hai phần ba chiều ngang, nền vàng giống
như cờ của Trần Trọng Kim, nhưng thay vì quẻ ly, nay
đổi lại ba sọc đỏ bằng nhau, chạy dài theo chiều ngang
của lá cờ. Chiều cao chia thành 3 phần bằng nhau. Ở
phần giữa, ba sọc đỏ nằm xen kẻ với hai sọc vàng, tất
cả năm sọc đều bằng nhau.
Ngày
8-3-1949 cựu hoàng Bảo Đại ký với tổng thống Pháp là
Vincent Auriol hiệp định Élysée, tại Paris, theo đó
chính phủ Pháp chính thức giải kết hòa ước bảo hộ năm
1884, Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Sau những
thủ tục pháp lý đưa Nam Kỳ, vốn là thuộc địa của Pháp,
sáp nhập trở lại vào lãnh thổ Việt Nam, nghĩa là đất
nước được thống nhất, Bảo Đại trở về Việt Nam lập
chính thể Quốc Gia Việt Nam do ông làm quốc trưởng
cuối tháng 4-1949.
Lúc
đó, trên đất nước Việt Nam có hai chính phủ. Chính phủ
QGVN ở các thành phố và vùng nông thôn phụ cận. Chính
phủ VNDCCH ở núi cao, rừng sâu và bưng biền. Khu vực
cai trị của hai bên không có giới tuyến rõ rệt. Hai
chính phủ theo hai đường lối hoàn toàn đối kháng nhau.
Chính phủ QGVN chủ trương tự do dân chủ, đa đảng tuy
có phần hạn chế vì chiến tranh, và dựa trên nền tảng
văn hóa dân tộc. Chính phủ VNDCCH chủ trương độc tài
toàn trị, độc đảng và dựa trên nền văn hóa Mác-xít.
Hai chính phủ được tượng trưng bằng hai lá cờ cũng đối
nghịch nhau: Cờ vàng ba sọc đỏ và Cờ đỏ sao vàng.
Về
phía QGVN, do đặc trính tự do dân chủ, nhiều chính phủ
kế tiếp nhau cầm quyền. Cuối cùng, năm 1954 quốc
trưởng Bảo Đại cử Ngô Đình Diệm lập chính phủ. Ngô
Đình Diệm chính thức chấp chánh từ ngày 7-7-1954 (ngày
Song thất). Hai tuần sau, hiệp định Genève được ký kết
ngày 20-7-1954, chia hai nước Việt Nam ở sông Bến Hải
(vĩ tuyến 17), VNDCCH ở phía bắc và QGVN ở phía nam.
Ông
Diệm ổn định tình hình miền Nam, tổ chức trưng cầu dân
ý ngày 23-10-1955, thiết lập chế độ Việt Nam Cộng Hòa
do ông làm tổng thống ngày 26-10-1955. Quốc hội lập
hiến được bầu ngày 4-3-1956, bàn chuyện thay đổi quốc
kỳ và quốc ca, nhưng chưa có mẫu vẽ quốc kỳ mới nào
ưng ý hơn, nên ngày 31-7-1956, Quốc hội ra quyết nghị
hoãn bàn, và vẫn giữ quốc kỳ như cũ. Sau đó Quốc hội
mở cuộc thi vẽ quốc kỳ mới; có tất cả 350 mẫu cờ
và 50 bài nhạc được đề nghị. Ngày
17-10-1956,
Quốc hội lập hiến một lần nữa
ra tuyên bố không chọn được mẫu quốc kỳ và bài hát nào
hay đẹp và ý nghĩa hơn, nên quyết định giữ nguyên màu
cờ và quốc ca cũ làm biểu tượng quốc gia.
Lá Cờ
vàng ba sọc đỏ được miền Nam sử dụng cho đến năm 1975,
khi cộng sản Bắc Việt, với sự hậu thuẫn của Quốc tế
cộng sản, cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam ngày 30-4.
Như
thế, lá Cờ vàng ba sọc đỏ đã xuất hiện từ năm 1948
trên toàn quốc, chứ không phải chỉ xuất hiện sau năm
1954, ở miền Nam Việt Nam sau khi đất nước bị chia
hai. Lá Cờ vàng ba sọc đỏ hoàn toàn đối nghịch với lá
Cờ đỏ sao vàng chẳng những về màu sắc, nhưng quan
trọng nhất đối nghịch cả về ý nghĩa chính trị. Một
bên, Cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng cho tự do dân chủ
và dân tộc; một bên, Cờ đỏ sao vàng tượng trưng cho
độc tài, đảng trị và quốc tế cộng sản.
Trần Gia Phụng
Số lượng đồng bào đã đọc đến hôm nay: