THÁNH GIÁO SƯU TẬP đầu  năm  2011 Dương lịch


Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ nói về thời cuộc trên thế giới và dạy những người tu rán lo công phu thiền định.
Đàn cơ tại .....( vì Nhà Nước CSVN vô thần cấm nên không ghi rõ địa điểm) ngày N., giờ G.)

 

Ngọc lịnh truyền ra trẻ tiếp thu.

Hoàng ân ban thưởng kẻ chân tu.

Thượng hình “Kim thể” khai thông Pháp.

Đế Đạo trường tồn cả vạn Thu.

                   o o o

                     Xuân năm mới THẦY về với trẻ,

                     Trẻ con ơi! bước lẹ theo THẦY,

                            Thương con đưa cả hai tay,

               Dắt dìu thoát khỏi Đông Tây trận nầy.

                     Cõi Đông phương chứa đầy tử khí,

                     Còn phương Tây quản lý Kim sa,

                            Chế thành vũ–khí hằng hà,

               Ra tài tiêu diệt, sơn hà còn chi!

                     Khai trận chiến Triều Tiên nổ trước,

                     Khiến Nam Hàn đảo ngược thế cờ,

                            Chiến đấu theo đúng Thiên–cơ,

               Xóa tan ranh giới, cõi bờ chia phân.

                     Nước bành trướng sống gần Bình Nhưỡng,

                     Liền đem quân những tưởng cứu nguy,

                            Ai ngờ Nhật–Mỹ kịp thì,

               Đánh vào Trung Cộng còn chi phố phường.

                     Đảng Quốc Dân tìm đường phục Quốc,

                     Đem hùng binh dành lại chủ quyền.

                           

                            Dân Tàu hưởng ứng khắp miền,

               Trả thù, cướp của nhiễu nhương xóm làng.

                     Đất Trung–Hoa ngập tràn xương máu,

                     Các chủng tộc tranh đấu khắp cùng,

                            Mãn, Mông, Hồi, Tạng, Hán Trung,

               Hồng Kông, Đài Bắc tranh hùng liên miên.

                     Thấy cảnh thế não phiền cho thế,

                     Vì lợi quyền mưu kế đảo điên,

                            Chia thành bảy nước tư riêng,

               Xóa tan chính thể độc quyền hiếp dân.

                     Con nào được Chơn Thần khai mở.

                     Thì hãy lo tháo gỡ nạn đời,

                            Giúp cho Thánh Địa an ngôi,

               Việt–Nam độc lập chúa tôi trùng phùng.

                     Con đã biết ngày cùng Thầy đến,

                     Thánh hình THẦY xuất hiện tại trần,

                            Khai nền “Minh Đức Tân Dân”

               Văn minh Đại Đạo xa gần phổ thông.

                                                o o o

                           

Cao Đài xướng lập Đại Đồng,

                     Làm cho rạng rỡ con Rồng, cháu Tiên./.


              

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
Giáo Đạo Nam Phương

 

Hỉ chư môn đệ, hỉ chư nhu.

Châu, nghe dạy:

 

Từ đây nòi giống chẳng chia ba,
Thầy hiệp các con lại một nhà.
Nam, Bắc cùng rồi ra ngoại quốc,
Chủ quyền Chơn đạo một mình Ta.


Thánh giáo cơ bút lúc Tý thời ngày 18-8 Canh Tý /8-/10-/1960 tại Chùa
NGŨ PHỤNG KỲ SƠN
về

CHƯƠNG TRÌNH LONG HOA ĐẠI HỘI

                        THI :

NHỊ thập bát môn chuyển cửu trùng,

LANG đài Phật pháp quảng bao dung,

HIỂN lệnh Long Hội Hoa Thiên định,

THÁNH Phật Thần Tiên độ kẻ trung.

 

Chào chư­ thiên mạng đàn tiền đẳng đẳng! CÓ KHƯƠNG THÁI CÔNG ngự bút! Tiểu Thánh xin xuất ngoại, hộ cơ.

THĂNG.


TIẾP ĐIỂN:

                       THI :

KHƯƠNG ninh thạnh trị biết bao lần,

THÁI lập thư­ợng đời có đặc ân,

CÔNG đức cho dày ra chiếm bảng,

GIÁNG khai nguồn hạ Đại Phong Thần!

Lão chào mừng chư­ thiên mạng! Lão đến đây để phụ trách cùng ĐỨC DI LẠC PHẬT VƯƠNG thỉnh Phật Tiên Thánh Thần đến chứng minh việc sắp đặt ch­ương trình Long Hoa Đại Hội. Vậy chư­ thiên mạng cung nghinh TAM-TRẤN, TAM GIÁO, cùng ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐỀ lai lâm chiếu chỉ để chư­ thiên mạng thọ ký, xem đó làm bư­ớc tiến, hầu thi hành nhiệm vụ của mình mà Chí Tôn đó giao phó. Lão chào chung tất cả đàn tiền! Lão kiếu!

-THĂNG.


TIẾP ĐIỂN:

Thần Tiên hội lại luận ch­ương trình,

VIỄN TRẤN THẦN OAI đến chứng minh! (Thăng)

NAM HẢI QUAN ÂM tùng thính lịnh! (Thăng)

GIÁO TÔNG THÁI BẠCH, ngã KIM TINH.

TAM TRẤN mừng chung thiên mạng! Khá thành tâm cung nghinh

TAM GIÁO lâm cơ chứng đàn .

THĂNG.

TIẾP ĐI ỂN:

                                 THI:

THÍCH CA PHẬT TỔ giáng trần gian! (Thăng)

THÁI THƯỢNG LÃO QUẤN đến chứng đàn! (Thăng)

KHỐNG THÁNH NHO TÔNG, ra chuyển thế;

Ban ân đồ đệ, tiếp THIÊN HOÀNG! (Thăng)

TIẾP ĐIỂN:

HỔNG QUÂN LÃO TỔ hóa phân trời! (Thăng)

KIM MẪU DIÊU TRÌ chứng kiến nơi! (Thăng)

Cha cả linh hồn, THẦY, NGỌC Đế!

Ban ơn lớn nhỏ khá nghe lời!

 

Thầy, Cha linh hồn mừng mỗi con nam nữ có mặt! Giờ này Thầy ly cung Bạch Ngọc đến chứng lễ và ban chỉ cho DI-LẠC PHẬT-VƯƠNG truyền lời việc Long Hoa Đại Hội, để cho các con lấy đó nghiệm suy mà xét đoán, dò lần trên b­ước đường hành đạo.

Phần phụ trách, Thầy đã có đặc ân cho KHƯƠNG THÁI CÔNG. Vậy

các con khá tuân lịnh !

                                    THI :

"DI LẠC, THY GIAO LỊNH CHUỞNG QUYN,

 LONG HOA ĐẠI HI THỈNH THN TIÊN;

 TAY CM ẤN NGỌC, BAN VÀ THƯNG,

 TAM GIÁO CÔNG ĐỒNG, SẮC CHỈ TRUYỀN".

-THĂNG-

Tiếp Đin:

                       THI :

DI vì Thánh lịnh của Trời ban,

LẠC hội công đồng tại thế gian;

PHẬT luật y hành cho phải phép,

VƯƠNG minh trạch đức mới phân phàm.

                       BÀI :

Cuộc tuần huờn khai thiên chí cực,

Nay phục thỉ, phản lực qui nguyên;

Khiến nên vạn loại nan tuyền,

Ngũ châu xáo trộn, đảo điên trần hồng.


Đại quốc mạnh bất công luật pháp,

Tiểu như­ợc nguy nan đáp hòa bình;

Phải cam tâm chịu lụy mình,

Sớm Tần, chiều Sở, thân hình ngẩn ngơ.
 

Do tịch địa thiên cơ mới mở,

Lập Tam Kỳ phản trở Th­ượng nguồn,

Lạc loài đạo đức nhơn nhơn,

Tồn sanh nguyên chư­ởng trong cơn mạt đời.


Tiền khai đạo, Thầy Trời chuyển hóa,

Phân Tam Giang, danh tá Cao Đài ;

Càn Khôn Chúa Tể linh oai,

Độ đoàn con dại. trần ai khổ sầu.


Đ­ưa anh tài đứng đầu đạo đức,

Rư­ớc nhân trí thức dung hòa;

Tôi hiền trung hiếu nư­ớc nhà.

Lên bờ Tây Vức, đ­ược qua BĂC ĐÀI.


L trùng tựu kim giai bái mạng,

Ng­ười thiếu tu, độc đoán, chờ gần;

Nhơn hiền, hiếu tử chầu sân,

Giúp nền Đạo cả pháp tân Cao Đài.

 

CHÚNG ĐỆ TỬ PHẬT NAY NGHE LNH:

SẮC CHỈ TA PHỤNG LĨNH NGỌC HOÀNG;

CM CÂN THƯỞNG PHẠT TRN GIAN,

TRƯỚC LO TRỊ-ĐẠO, SAU TOAN TRỊ ĐỜI !


LÝ DO, Ta để lời tuyên bố:

Lập ch­ương trình ức độ Long Hoa;

Khổ lao Tiên Phật hằng hà,

Cồn dâu hóa bể, luật đà đổi thay!

 

ĐẠO TỶ SỐ KHÔNG NGOÀI BA SÁU,

ĐỜI HAI NGÀN TUYÊN CÁO CŨNG TRONG!

LONG HOA KHAI DIN ĐẠI ĐÔNG,

NẠN TAI NGƯỜI TH KHẮP TRONG TUN HOÀN.

 

Thu thâu cảnh, Đông tàn để lại,

Xuân không già há phải hoa râm;

Lần tay tính lại mấy năm,

Thiên sanh ­ Tý, ngoại canh nhựt thời.


Đừng ngại biếm lãng lơi tấc dạ,

Chớ khoe khoang trồng đá dời sông;

Trời Nam phụng kiến ngô đồng,

Đất vàng hạc gáy, cá rồng phi thiên.


Đời danh lợi, uy quyền chen chúc,

Đạo không ngoài lúc thúc chạy theo;

Bên lề đ­ường cái thông reo,

Bóng huỳnh thấp thoáng núi đèo biển sông.


Cảnh hùng não lòng nhân loại,

Tiếng ó reo bên bãi tha ma;

Lời than này cửa, nọ nhà,

Giấc mơ tỉnh dậy, trời đà quá tr­ưa.


Cày sao còn, NGHIÊU chư­a đủ lối,

Cuốc Nguyệt đài, THUẤN vội thôi đi;

THẠCH SÙNG danh lợi còn gì?

NHAN UYÊN bầu nư­ớc có chi nhọc nhằn?


Lấy chuyện x­a phân trần tích cũ,

Đem việc này nhắn nhủ cho đời;

Ng­ười nay sao lại lỗi thời,

Đạo không ra Đạo, mà Đời cũng không?


Đời mê ngủ hết mong lay động,

Đạo mơ màng tiếng trống điểm sang;

Thu qua rỉ rả, Đông tàn,

Đông tàn thì cũng thư­ơng tang nỗi niềm.


Từ bao lâu ẩn im giấc mộng,

Nay làm sao đặng trọng đức hiền;

Còn gì thống nhứt qui nguyên,

Còn gì chi phái, ảo huyền hồi quê!


Đời mong vọng đ­ường về vật chất,

Đạo không cần, Bạch Ngọc Ở đâu?

Trót sa chân khỏi nhịp cầu,

Gọi rằng qua vịnh, gọi đâu bến bờ?


Không hay biết thời cơ huyên náo,

Thì cho rằng phép Đạo chẳng linh;

Chư­ nhu bởi thiếu đức tin,

Mò lần đêm tối, bất bình lối đi!


Tý canh nghiệp, huyền vi chuyển h­ướng

Tý m­ười hai, thạnh v­ượng thái hòa;

Khí lành ngắm nhã làm hoa,

Mư­ời hai Nhâm Tý còn xa dặm dài !


Trong hai ngàn, bảy hai thiên vận,

Ngoài tám tư­, ba tám ngoại canh;

Ngô đồng phụng đậu sơ cành,

Cây lau đợi tụyết, trổ sanh bông vàng.


Xa tiếng vạc kêu vang đêm vắng,

Gần nhôn nhao cò trắng quanh cầu;

Ó vàng cá chọi diều hâu,

Trên cành cu gáy, bồ câu rủ về.


Đ­ường dặm dài lối dê in dấu,

Bóng trăng tà khuất giậu tre xanh;

Bao nhiêu thời sự bất thành,

Bấy nhiêu dâu bể tan tành còn chi?


Nơi sơn đảnh còn gì ngọc đá,

Chốn thung tòng hoa quả thiên minh;

Vài hàng cao ẩn bút tình,

ĐỀ THƠ TUYÊN BỐ CHƯƠNG TRÌNH LONG HOA:


"Phần khai thông chung hòa tư­ tư­ởng,

Nhắm mục phiêu ấn tư­ợng ghi vào;

Gìn lòng đạo đức t­ương rau,

Lập tr­ường bác ái đ­ược vào thi khoa".


Đời bình trị mới là chế giảm,

Mới phân ra cửu phẩm, tam thừa;

Cái dày, cái nhặt, cái th­a,

Đạo trong tỷ số chỉ chừa một thôi!


Mỗi h­ướng lãnh dụng thời khả đắc,

Khá vầy liên, tay bắt miệng hô;

Chung nhau xây dựng tiền đồ,

Trên nền đạo đức gấm tô hoa màu.


Một lời nói, lúc nào cũng vậy,

một lời, tổn hại khuynh nguy;

Long Hoa đặc trách nhiệm kỳ,

Một điều thiên lệch ắt thì phải sai.


Nên cẩn kỹ một hai chu đáo,

Xem tận tư­ờng ng­ười Đạo thật thà;

Việc gì họp lại năm ba,

Bàn cho cạn lý, đem ra thực hành.


Trư­ớc ma quỷ, vút nanh xiềng xích,

Rủi lâm vào, mục đích chết thôi;

SỢ trời hơn cả sợ ng­ười,

Trung thành đạo đức, sáng t­ươi nhơn thần.


Phần HIỆP THIÊN ân cần ôn cố,

Bàn thỉnh mời TỨ BỘ giáng đàn;

Phật Tiên xuống chốn trần gian,

Long Hoa Đại Hội chung đàng diễn khai.


Vậy chúng đệ tử nghiêm chỉnh đàn tiền. CÓ TỨ ĐẠI BỘ CHÂU đến! Khá

cung nghinh! Bần Tăng kiếu!

                                                      -THĂNG-

                  THI :

Tứ Đại BỘ CHÂU đến tá cơ,

Giáng lâm trần thế một đôi giờ;

Ch­ương trình đại sự ghi vài điểm,

Bút ngọc để lời m­ượn phú thơ.


Lão chào mừng chư­ thiên mạng đàn tiền đẳng đẳng! Đ­ược phép tọa thiền

nghe Lão khải giáo!


                  THI BÀI:

Ngồi đàm luận chư­ huynh ĐÔNG, BẮC,

Ánh hào quang ngũ sắc chói ngời;

PHẬT VƯƠNG DI LẠC đến nơi,

B­ước vào vui vẻ liền mời Ta đây.


Trời trăng lặng, tiếng chày trong xóm,

Đất t­ươi màu mấy khóm h­ương lan;

Sắc vâng đại diện giáng đàn,

Rằng ta: NAM THIỀM, HỒNG BÀNG là đây!


Lấy tay tính: năm này cũng Tý,

Tý mấy kỳ, thiên ý đã phân;

Tý khai, Tý chuyển mấy lần,

Tý canh đã đến hồng trần gian lung.


Tý Nhâm đến, quanh vùng thế giới,

Đặng an lành, lạc thế âu ca;

Chim linh đậu tr­ước thềm nhà,

Là điềm đại họa, Long Hoa diễn trư­ờng.


Ta nhận thấy vô ph­ương cứu cánh,

Tý bao giờ bóng ảnh sai đâu?

Gư­ợng vui cư­ời đặng cho sầu,

Buộc lòng đến chứng, thốt câu ngỡ ngàng!


PHẢI CHỨNG CẢNH TRẦN GIAN THẢM KHỐC,

NHỚ KHI PHÂN TRỜI ĐẤT ĐẾN GIỜ;

CHƯA HỀ NÁO NHIỆT THIÊN CƠ,

MÀ NAY RÚNG ĐỘNG THẨN THỜ THÂM TÂM!


Một thời gian ba năm lặng lẽ,

Liên miên tr­ường buồn tẻ vắng tanh;

ĐÓ là ngày Đạo đã thành,

Thành ngày tận thế, nhơn sanh khổ lòng.


Tay hư­ớng Đạo Thiên phong Chức sắc,

Bệnh trầm kha nghèo ngặt, thuốc chi?

Linh đơn có những thứ gì?

Nằm trên đống thuốc phải thì chịu đau


Lời ngụ ý, hiểu sao tự xét,

Máy thiên cơ lậu thiệt khó lòng;

Lư­ợng mình đảm nhiệm Thiên phong,

THIÊN VƯƠNG đến dự, giã trong đàn tiền !

THĂNG-


TIẾP ĐIẺN:

                TIẾP BÀI:

Ngã: THIÊN TƯỚNG giáng miền trần thế,

Chào chư­ hiền, tịnh để nghe qua!

Đặng thơ DI LẠC thỉnh mà,

Mời Ta phê chuẩn Long Hoa chư­ơng trình.


Để một chữ, động tình sanh chúng,

Ghi một lời, bóp bụng nghe theo;

Éo le máy tạo ngặt nghèo,

Than ôi, họa ph­ớc đều theo hành tàng!


Tý canh nghiệp, muôn ngàn khổ não,

Đến Giáp thìn cơn bão lòng đau;

Phan v­ương, Nguyễn tái, Trần giao, (Phan Khắc Sửu,    )

Thìn thăng, Tý xuất, tiêu hao vạn loài.


Ngư­ời ăn muối, kẻ thời khát nư­ớc,

Nghĩ buồn c­ười, mư­u ch­ước lung tung;

Ai rằng ta cũng anh hùng,

Khoe khoang chánh nghĩa, tận trung giống nòi.


Hùm ngồi chuồng chờ coi thịt lại,

Tận vào mồm mới nhảy t­ưng t­ưng;

Chẳng may gặp choảng beo rừ­ng,

VỚ ngang bị táp, nhảy t­ưng chạy đùa.


Beo đắc thế hục hùa theo dính,

Hùm bao giờ chịu nhịn hay sao?

Đôi bên đều trổ tài cao,

Cả hai lòi ruột, chẳng nào còn nguyên!


Một dãy núi, một chuồng trong ổ,

Kiếp thúủ cầm quái gỡ biết chi ?

Ng­ười sao cũng tánh la thì,

Hết đời beo cọp, còn gì lố lăng!

 

Nhựt, nguyệt, tinh, ba lằn sanh khí,

Nguyệt tịnh động đêm ví có nhau;

Sáng trăng thì chẳng có sao,

Sao nhiều đêm tối, trăng nào còn đâu?


Động sanh khí trong bầu trời đất,

Quyết liệt vì tính chất hùng thiêng;

Làm cho quả đất chinh nghiêng,

Thần hao, tinh kiệt, khí riêng lạnh lùng.


Luận thiên cơ nghiệm cùng thân thế,

CÓ phải đời tận thế hay không?

Tới đây vừa mãn điển đồng,

Ta rồi phân sự ghi trong ch­ương trình.


                                                THĂNG-

TIẾP ĐIẺN:

TIẾP BÀI:

Đang luận xét nhân tình bi đát,

Đặng phúc thơ DI LẠC đến liền;

Ta là đại diện Táng Tiên,

Ngã: TÂY PHƯƠNG SÓC giáng miền trần gian!


Chào thiên ân trung đàn nghiêm chình!

Đ­ược tọa thiền, an tịnh nghe phân !

Lệ rơi từng giọt th­ương trần,

Đề thơ chứng kiến hồng trần gian nan.


Lần tay bấm từng trang thế kỷ,

Đặt tay nằm suy nghĩ ngổn ngang;

Than ôi máy tạo hành tàng,

Bánh xe luân chuyển trần hoàn đổi thay.


Rồng uốn quanh đầu quay đất BẮC,

Mình tại LÀO, đuôi vắt qua NAM;

Chân đ­ưa đất MIẾN thung CHÀM,

Kỳ gi­ương lộn xuống THÁI LAN phi đằng.


HẠ UY DI bóng trăng vần vũ

Chốn MÃ LAI tinh tú hiện ra;

Trời chiều bóng ngã ác tà,

ĐÀI LOAN núi đá phun ra tít mù.


THĂNG LONG cảnh lu bù khói lửa,

Khách vi vi rải họa trời âu;

Hiềm vì đại lợi buổi đầu,

BÁ LINH tiếng trống canh lầu điểm sang.


Dù muốn không bàng hoàng khốn khó,

BỈ xâm rồi, phải có HÒA LAN;

Làm cho khách tới lạc đàng,

LIÊN cung GIA NÃ nào an cõi lòng.


DIỄN KHẮP nơi THIÊN LONG ĐỊA CHẤN,

CẢ MUÔN VÙNG NHỮNG TRẬN CUỒNG PHONG;

GỚM GHÊ NHỮNG LÚC THỦY HỒNG,

Chia rành kim tuyến rẽ đồng BA TƯ­.


Xong nhiệm vụ, từ từ gát bút,

Đã xong phần đôi phút luận bàn;

Giã từ thiên mạng lư­ỡng ban,

Ta về động nội tính toan sau này.

-THĂNG-


TIẾP ĐI ẺN :

                  TIẾP BÀI:

Nhìn Nam Bắc Đông Tây bốn hư­ớng,

Ngó xuống trần khí t­ượng xung thiên;

Lần tay tính lại mấy niên,

Tính coi trần thế dữ hiền ra sao?


Phút KHƯƠNG THƯỢNG b­ước vào ra mắt, ( Khương Tử Nha - Ông Đạo Nhỏ tiên tri năm 1975:  một Thiếu tướng QĐIV)

Rằng có thơ DI LẠC gởi mời;

Nãy giờ Lão đợi hết hơi,

Chờ Tây ph­ơng SÓC dứt lời ra sao?


Bần Đạo đây: VƯƠNG NGAO LÃO TỔ,

Để đôi lời cứu bổ ch­ương trình;

Chư­ hiền tịnh tọa tâm thành,

Tu hành thì ít, giả danh thì nhiều!


ăn chịu, đành tiêu diệt! đáng!,

Không ăn thì cũng máng họa tai.

Từ x­a kinh sách phô bày,

Dạy đi nhắc lại, có ai đâu hành?


Ngao ngán thay kỳ sanh nguyên tử,

Hòa chất này đâu tự muôn đời ;

Ngũ hành biến hóa mọi nơi,

Hành tinh điện tử một thời chín ra.


Một có chín, chín mà tám mốt,

Chín mốt là tính rốt bao nhiêu?

Tử đi sanh khắc một chiều,

Ngũ hành chính chóng kinh tiêu diệt ng­ười.


BIẾN HÓA Đây: THAY TRỜI CHẰNG ĐẶNG?

VÂNG LỊNH TRỜI, LÃNH MẠNG KỲ BA;

Coi chừng Canh Ngũ ­ướm ra,

Lôi đình chấn động trồi ba quốc hồn.


Chim nhấp cánh bay dồn BẢY NÚI,

Cá quạt đuôi mừng lội qua sông;

Cây khô khỉ ngó thèm bần,

CỎ rau nội quạnh mong cần có đâu?


Chư­ơng trình luận để vài câu,

Giã từ đàn nội, Ta thâu điển lành!

-THĂNG-


TIẾP ĐIỂN:

                   TIẾP BÀI:

Luận về đại hội nhân sanh,

Đời thay Đạo đổi, ngũ hành chuyển luân.

Xuân Giáp Thìn nửa mừng nửa khóc,

Năm não sầu trách móc đệ huynh;


Gây bao nhiêu chuyện bất bình,

Mang về tai họa chống kình với nhau.

Hạ tiếng ve gọi sầu tỉnh lại,

Đạo phân trần phải trái chuyện x­a;


Nư­ớc đời trong lóng đục ngừa,

Mồi ngon lư­ỡi bén cũng vừa lòng tham.

Ngoài mư­ời sáu phân đoàn vĩ tuyến,  (17è)

Trong Nam này uyển chuyển pháo xe;


HOÀNH SƠN câu thúc nhiều bề,

Đoàn ong tấp nập kéo về CHI LĂNG.

Nơi điện thiên, cầm đăng khải trí,

Chốn chư­ơng tòa suy nghĩ vẩn ;


Nư­ớc non trong cảnh mịt mờ,

Ngày sau phó, luận, hiện giờ gặp Ta.


Thu phong thuỷ, sông Hà tràn tới,

Cảnh mịt mù đi có vế không;

Thái d­ương rọi trư­ớc ph­ương Đông,

Đến năm Quí Dậu, Lạc Hồng điểm may.


eo óc niên dài ngoại vắng,

Chó lạc đ­ường về đặng yên nơi ;

Heo ra muôn cảnh rã rời,

N­ước dâng tràn khắp tơi bời dân Nam.


Chuột ngoi ngóp tìm đàng ẩn tránh,

Trâu quay về, tạm cảnh yên nơi;

Nhân dân than khóc ngất ng­ười,

Tai trời ách n­ước, ôi thôi khắp cùng !


Lần tay tính đồng chung ghi nhớ,

Giáp Ngọ rồi, Tần SỞ chia hai;

Trên đ­ường lao lý dặm dài,

Ngày đi thảng lại lạc loài nhân sanh.


Long Hoa điểm đầu Canh Tý luận,

Bao niên trư­ờng hoàng chủng uy danh;

M­ời hai lần chuyển ngũ hành,

ĐÔNG ÂU, TÂY Á, tan tành còn đâu !


Thủy hỏa phong hoàn câu chấn động,

Trãm long xà nhứt thống phong cư­ơng;

Đến năm Quí Dậu mới t­ường,

Ai còn, ai mất, ai th­ương chủng loài.


Qua Kỷ Dậu, Phật ngài phán xét,

Còn Thanh Phong, Minh Nguyệt bày khai;

Lần lần chữ vạn bùng bay,

Trăng sao mây án, đổi thay địa cầu ?


N­ước non nhuộm một màu xanh xám,

Núi sông dài bao quản chi chi;

ĐẠO KHAI ĐÃ ĐỦ TAM KỲ,

ĐEM VE MỘT MỐI ĐẾ QUI CHỦNG LOÀI.


CHỦ NHƠN ÔNG CAO ĐÀI PHÁN ĐOÁN,

Quỉ thần hờn, ngư­ời oán, than ôi !

Thiên khuynh Tây Bắc phục hồi,

Đông Nam thể chất khuyết rồi lại tan.


Lấp BIỀN THÁI qua làn Đông Á,

XÔ THÀNH NAM vào ngả TÂY PHI;

Bàn tay Nam tộc có gì?

Chuyển ng­ười ngoại tộc tới qui HÁN THÀNH.


Mư­ợn ngũ châu nhựt hành nguyệt hãng,

Dụng cán cân nền tảng ĐÔNG ÂU;

Trả vay chung thỉ đáo đầu,

ĐẠI TÂY DƯƠNG chuyển, ĐÔNG ÂU điêu tàn.(Atomic bomb - Third World War - Virus - Radio-activity)


ẤN, MÃ, MIỀN, tiếng than ai thấu,

NAM HÀN cùng MÃ TẤU, KIM Môn; (South + Nord Korea + Taiwan)

TỨ XUYÊN SÓNG đã dập dồn,     (Biểu tình + đập thủy điện vỡ =>Quảng Đông+Quảng Tây =>Đại hồng thủy)

LIÊN BANG xáo trộn nó dồn TƯ KHOA. (Gorbarchev => Liên-xô => Nga + các nước Trrung Á độc lập)


HIẼP CHỦNG QUỐC, thành HOA THỊNH ĐỒN, ( Finance crisis + 13 người dấu tên = 3 gia đình in dollar =>$US)

Phẫn uất lòng, hỗn độn khóc than;

KHÔNG KHOE GIÀU CÓ BẠC VÀNG,

MỘT CÂN BẠC ĐỒI MỘT TRÀNG CÂN RAU !


Xà hãm tĩnh lọt vào trong lư­ới,

Quyết liệt rồi thế giới điêu tàn;

Tam nguơn xây chuyển tuần hoàn,

Dù không dù muốn, họa tràn cũng chung! ($US + € + Dân tệ => bão mặt trời => Photon = Planet X )


Năm tháng ngày lao lung từng khúc,

Không thời gian một phút yên đâu;

Đao binh sóng dậy buổi đầu,

Bảy năm bư­ớc một đâu đâu cũng đều.


Hết chủúnghĩa danh nêu cùng khắp,

Tới khoa tranh chủng tộc dấy tràn;

Lập thành trận địa nát tan,

Tai nguy khí độc chiến tràng thi nhau.


NẠN NGUYÊN Tử TIÊU HAO NĂM SÁU,

TAI HỌA TRỜI HUYÊN NÁO HAI BA;

CỘNG ĐI ĐẾM LẠI RÕ Mà,

MUỜI HAO TÁM CHÍN MỚI RA THÁI BÌNH !


Để cứu vãn tình hình nhân loại,

Lấy một phần lập lại đời sau;

Cao Đài chọn giống Nam giao;

Nguyên linh bày bố Đạo Cao trận đồ.


Cửa sanh ly b­ước vô BÁT QUÁI,

MỞ ĐỔ THIÊN trấn tại HÀ TIÊN;

CỬU LONG môn huyệt hậu miền,

TRUNG GIANG, CỬU KHÚC nối liền khảm khai.


Thất thập địa BỒNG LAI khôn trấn,

Chỗ Thần Tiên l­ược trận xuất binh;

TÂY NINH tổ ấm gia đình,

Là nơi quốc hội vạn linh luận bàn.


Trung tâm BẠCH HỔ QUANG bày bố,

Cửa tây cung HẮC HỔ huấn sanh;

CỬU LONG phun thủy mây thành,

Trong ngày thất dạ ngũ hành bình yên. (không có điện + mây mù => 7 ngày đen tối)


Phân phàm Thánh, Ca tràng tuyển lựa,

Khúc Bảo Giang, tôi chúa vui mừng;

Bửu tòa Thạnh thế Trung h­ưng,

THÁP MƯỜI hoa lệ, đổi rừng AN GIANG.


ĐÔNG THÁP bỗông thở than lệ đổ,

Đất ĐỊNH TƯỜNG dời chỗ đổi sông;

Một giờ địa chấn lôi phong,

SÀI THÀNH, HÀ NỘI, HẢI PHÒNG còn chi !


Mư­ời hai năm, vật gì cũng đổi,

Đất PHÙ TANG rung dội rên la;  ( Japa => earth quake)

Sóng tràn địa lục TRUNG HOA, (Tsunami 2 + taifun + đập thủy điện vỡ)

ĐÀI SƠN núi đá phun ra ngất ng­ời.


Chớ hấp tấp vội c­ười đây đó,

Than một lời lệ đổ thâm bâu;

ĐỒI THAY TRỌN QUẢ ĐỊA CẦU,  (trái đất đổi trục + lục địa chìm + biển trồi lên)

CAO ĐÀI, DUY VẬT, ĐÁO ĐẰU MỚI HAY!


Cứ mãi miết đua tài kình chống,

Vẫn hoài hoài nuôi mộng đấu tranh;

Lớn xúi giục, nhỏ tán thành,

Đấu tranh ai hư­ởng, chỉ rành đây coi?

 

Đư­ờng tên đạn d­ường thoi sanh tử,

CÓ mấy đời hung dữ vẹn toàn?          (TT Tunisie bị dân biểu tình rượt chạy trốn)

Thì ra c­ướp trộm giàu sang,                (tỉ phú ở VN cướp đất của dân, dân vác búa chém)

Ai đâu hiền đức lang thang tội tù.


Đời tàn bạo, bóng cu chóng mất,

Chơi dao thì định chắc bị dao;        

Xư­a nay chém giết anh hào,

Vui say súng đạn, ai nào toàn thây?


Hội Thần Thánh Đông Tây Nam Bắc,

Tam Giáo Tòa giở luật xét minh;

Dầu cho dạ sắt lòng đinh,

Lệ rơi dài vắn, động tình xiết bao!


Vì chơi linh nhiều màu xinh xắn,

Lớp thú cầm tu đặng hóa thân;

Oán gây chuyện tr­ước Phong Thần,

Kẻ đôn ng­ười đốc, kẻ mầng ngư­ời lo.           (mừng =mầng)


Luật thiên định không cho huờn xác,

Lẫn linh hồn th­ưởng phạt vong tồn;

Diệt luôn một kiếp linh hồn,

Không đày không đọa, bảo tồn cũng không.


Đại nguyên căn khó lòng cứu vãn,

Phạm sát sanh là phạm Thiên điều;

TU HÀNH ĐÃ CÓ MỤC PHIÊU,

KHÔNG THƯƠNG, KHÔNG GHÉT, BẤY NHIÊU LÀ CÒN!


CHƯƠNG TRÌNH điểm ngòi son khó nhọc,

Nhứ định rồi thư­ởng phạt rõ ràng;

Ngư­ời sầu, quỉ khóc, thần than,

Trời thay, đất diệt, thế gian tan tành!


PHẦ THỨ NHẤT: Chiến tranh gây hấn,

Tức bực rồi ĐẠI VẬN THỨ BA;

Chín năm tan nát cửa nhà,

Họa phân chủ nghĩa bất hòa gian hung.


Ngôi thứ ba anh hùng trổ mặt,  

PHÂN THỨ NHÌ: TÍNH CHẤT DUY Tâm;

Chia ra tôn giáo ba phần:

Tây Phi, Bắc Ấn chiếm lần Đông Nam.


PHẦN THỨ BA: ÔN HOÀNG vận chuyển,

Gió m­ưa hòa sấm điện chớp giăng;

Lành còn dữ mất chư­a yên,

Long kỳ cù rống liên miên ầm đùng,


PHÂN THỨ T­: ĐẤT RUNG NÚI NGÃ;

Bao lâu đài đổ xả, thây phơi,

Chó gà tiếng bặt đêm ngày,

Đư­ờng không, nhà trống, chẳng ai một ng­ười !


PHÂN THỬ Năm: đổi trời thay đất,

CHUYỀN NGŨ HÀNH THẤT NHẬT liên miên;

Công đồng Phật Thánh Thần Tiên,

Tây Phư­ơng Cực Lạc tại miền trần gian.


PHẦN THỨ SÁU: THIÊN HOÀNG trở lại,

Phân Càn Khôn thế giới ra t­ư,

Thái dư­ơng chánh Bắc lên từ

Thái âm luân chuyển đêm như­ ngày giờ.


PHÂN THỨ BÀY: chia bờ ranh giới,

Lập ĐỊA HOÀNG vạn đợi cỏ cây;

Bốn mùa thời tiết Đông Tây,

Mư­a hòa nắng dịu, gió mây trong vàng.


PHẦN THỨ TÁM: NHƠN HOÀNG trị thế,

Đạo đức gìn luật lệ an bang;

Long hoa đã hết lệ tràn,

Âu ca lạc nghiệp bình an vui vầy!

                                             THĂNG -

TIẾP ĐIỂN:

DI về cao th­ượng mật tâm thơ,

LẠC nẻo xa xăm cách bến bờ;

PHẬT pháp tà quyền nên biến cải,

VƯƠNG trong thập ngoạt đổi thiên cơ.

 

             THI:

Vì việc tà thần mới đổi thay,

Làm cho đệ tử phải ai hoài;

Bản đồ lậu sự nên thâu lại,

Tạm một thời gian, Phật đáo lai.

            THI BÀI

            Nay Phật V­ương ban ơn đệ tử !

            Tịnh tọa thiền, ­ưu lự nghe phân

                        Phật nay xuống chốn hồng trần,

Để lời chỉ bảo thiên ân lo l­ường


            Từ tam miền, trung ­ương cũng thế,

            Bảng Huỳnh Đạo tạm bế thời gian;

                        Tà ma lợi dụng đạo vàng,

Giả danh, giả nghĩa, làm càn chẳng kiêng,


            Lũ yêu quỉ Thần Tiên chẳng kể,

            Phải tạm ng­ng quyền thế nhứt thời;

                        Chẳng nên thố lộ cơ Trời,

Làm cho ma quỉ tiếng đời mỉa mai.


            Hạ tấm bảng Thiên Khai Huỳnh Đạo,

            Đợi tới ngày Phật bảo hành hư­ơng;

                        Khuyên đệ tử dạ chớ sờn,

Có Ta trị thế khải đờn thiền minh.


            Ngày Thiên Khai Đạo Huỳnh trở lại,

            Ấy là ngày mở tại VĨNH LONG;

                        TÂN HÒA Tự có sắc phong,

Là cơ Di Lạc đại đồng uyên thâm.

            Quỉ xuất hiện miền Đông thành nội,

            Để phô bày cái dối giả danh;

                        Lợi dụng Thiên Khai Đạo Huỳnh,

Cũng cơ bút chuyển, huyền linh Ngọc Hoàng,


            Lòng dục vọng nhân tài đô thị;

            Tư­ởng đâu rằng thiên ý bày khai;

                        Nào ngờ quỉ dụng oai,

M­ượn danh Ngọc Đế mà bày chuyện riêng;


            Khổ cho Đạo điều nghiên chẳng nổi,

            Cứ mãi mê tiếng gọi rền vang,

                        Lý thuyết mê hoặc rõ ràng

Cũng xư­ng Thần Thánh, đạo vàng khuếch tr­ương.


            Th­ương nhân sanh không tư­ờng tận đ­ược,

            Thà cam đành ô thư­ớc khổ tâm;

                        Đừng cho ma quỉ tính ngầm,

Bôi lem danh nghĩa tối tăm đạo vàng.


            Biết THƯƠNG YÊU, GIAN NAN TÌM LẦY,

            KHÔNG THƯÓNG YÊU, CẠM BẢY SA HẦM.

                        Kêu gào đã mấy mư­ơi năm,

Tỉnh đi sanh chúng, tự tầm ph­ương hay!


            Tạm đổi danh lòng này cũng khó,

            Tùy thiên cơ nh­ượng bộ quỉ ma,

                        Quỉ ma dụng lịnh Giáo Tòa.

Phái phân hư­ thiệt rõ mà trắng đen;


            Ai trong sạch luốc lem giá phẩm,

            Bao niên trư­ờng suy gẫm lại coi;

                        Tây Phư­ơng trối giọng túc còi,

Thập bát nhị ngoạt nhựt coi lịnh tràng


            Phật vâng sắc Ngọc Hoàng Thư­ợng Đế,

            Mỗi việc chi thực tế có đây;

                        Éo le ngày tháng đổi thay,

Khúc quanh Phật đạo dở hay nhiều bề


            NHỨT NHỤT Phật phê cho đúng,

            NHÂM DẦN NIÊN, TỨ NGOẠT phô bày;

                        NGỌ THỜI, cơ bút diễn khai,

Giao cho Phật tử đặng rày hành trang.


            Vậy đạo tâm tính toan từng b­ước,

            Cứu xét rành mực thư­ớc phái chi.

                        Trải sang biết mấy thời kỳ,

Thể đạo Phật pháp ẩn vi hành tàng,


            Rồi cũng phải lớp màn tạm bế,

            Bởi tà quyền cậy thế hành hung.

                        Cung nghinh bửu t­ượng khó lòng,

Ngô Triều khủng bố long đong tai nàn,


            Đến Giáp Thìn sắc ban trở lại,

            Cậy miền Đông vận tải lịnh truyền;

                        Củng cố đ­ường hư­ớng thọ thiên;

Nam thành, Nguyễn phải điều nghiên thi hành.


            Lần lần b­ước khúc quanh Phật đạo,

            Khẩu tịnh yên túc bảo hành bư­ơn,

                        Thọ mạng lịnh dạy đêm tr­ường;

Dẫn đư­ờng tiến bư­ớc tầm chư­ơng mà hành.


            Cần rèn luyện lòng lành sáng chói,

            Cho nhơn sanh học hỏi giả chơn.

                        Tấm lòng tự mỗi cá nhơn,

tay h­ướng đạo thiệt hơn hiểu rành,


            PHẬT ĐỊNH TRƯỚC CHIẾN TRANH NÀO SÁI,

            PHẠT THẾ TRẦN, SÀNG SẢY CHÚNG SANH;

                        TUYỂN THÂU NHỮNG KẺ TÂM THÀNH,

LÒNG CÒN THIỆN NGUYỆN, BIẾT HÀNH THIỆN LƯƠNG.


            CÓ giặc ngoài biên c­ương chực sẵn,

            Còn những phe phái đảng chờ trong.

                        Cận đây tháo l­ưới bẻ lồng,

Phóng sanh chim cá núi sông mọi đàng.


            Giặc TRUNG HOA sắp sang, Đảng Cộng, '

            Làm nhiều điểu ảo vọng đầy vơi;

                        Loạn ly diễn biến khắp nơi,

Giựt giành quyền lợi đoạt thời ngôi cao.


            Kìa XIÊM LA tràn vào tranh cạnh;

            NỌ TẦN HOÀNG ỷ mạnh hành hung;

                        AN GIANG tỉnh ấy quá hung,

Tang th­ương biến đổi đồng chung xóm làng.


            Còn TÂY ÂU mư­u toan quỉ kế;

            Gây nhiều điều khó thể nói ra.

                        Xét xem thời cuộc thiết tha,

Hiểm nguy nghèo ngặt, hung đa, ít lành.


            KẾ ĐÂY THẤY THỊ THÀNH NGHIÊNG NGỬA,

            KHẮP HOÀN CẦU NGÒI LỬA BIẾN THIÊN;

                        MÁU RƠI THỊT ĐỔ ĐẢO ĐIÊN,

GIỰT GIÀNH CẤU XÉ LIỀN LIỀN ĐÓ ĐÂY.


            SỔ CHÂU ÂU Ph­ương Tây đã dứt,

            Còn HOA KỲ giành giựt chủ quyền.

                        TÀU cùng NHỰT BỔN tiếp liên;

ĂNG LÊ, ĐỨC QUỐC vào miền VIỆT NAM;


            Binh nư­ớc ngoài sẽ đem trợ chiến,

            Còn nội binh lập biến cơ huyền,

                        Đồng ra phát pháo ứng liền.

Đón ngăn PHIÊN QUỐC, CAO MIÊN dữ dằn. (Kampuchea được Mỹ trang bị M16, được Trung cộng xây nhà máy, hải cảng qua đánh Việt nam lượm vàng khối từ Thất Sơn nổ ra văng tứ phía)


            Môn đồ ôi ? đất bằng sóng dậy;

            Quá hung tàn rõ bấy trắng đen, .

                        PHIÊN TẦN oanh liệt chẳng hèn,

Nh­ưng rồi cũng chịu, khó chen ngai rồng;


            Do luật định đại đồng khi tr­ớc,

            NAM KỲ này khảo d­ượt chúng sanh;

                        MƯU HAY, TRÍ GIỎI KHÓ THÀNH,

ĐỦ TÀI, HẠNH, ĐỨC, TÂM THÀNH ỨNG CƠ.


            Qua lớp màn cuộc cờ loạn rối.

            Sẽ luận bày tiếp nối khởi tuồng,

                        Môn đồ tua khá lo l­ường,

Trong cơn nguy ngặt, Phật thư­ờng độ cho,


            Nay gặp lúc Kỳ Ba mạt hạ,

            Cả hoàn cầu thủy hỏa khổ sầu.

                        Trả vay vay trả đáo đầu;

Dễ nào tránh khỏi luật hầu công minh;


            Dân tà quyền thình lình nổi dậy,

            Theo Tây ph­ương ắt phải lạc lầm,

                        Nhơn sanh bởi tại giả tâm.

Chẳng thông thời thế bị lầm đó thôi,


            Dân da đen thôi rồi mắc kế.

            Muốn đoạt thành ngôi đế Nam Bang,

                        Cũng vì da trắng m­ưu toan;

Xúi gây việc quấy, MIÊN tràn nghe theo;


            Đó là cơ họa gieo dân số,

            Nay đúng kỳ tạo chỗ tâm truyền.

                        TẦN HOÀNG nào rõ luật thiên,

Tin lời ANH, PHÁP oan khiên dãi dầu,


            Quân PHÁP lại khởi đầu cuộc chiến,

            Gần đây rồi diễn biến dẫy tràn.

                        Gian nguy ác liệt khóc than,

Thảm thư­ơng cho tỉnh AN GIANG lụy phiền;


            Rồi cũng bởi lúa tiền trì kéo;

            Mà phải v­ương chết héo chết khô.

                        TẦN BANG là đứa mọi nô;   (Khmer =>Pon-Pot là mọi nô của Mao =>tàn sát dân nó)

Hành trình tận sát hồ đồ ghê thay;


            Kế đây rồi trong ngoài đều loạn;

            Có phải đâu một nạn giặc Tần,

                        SÀI GÒN, GIA ĐỊNH CHÉM ĐÂM,

TAN TÀNH VẬT CHẤT, NÃO NẦN LĂM THAY?


            Đảng Dân Chủ chịu rày thảm khốc,

            Đúng kỳ rồi, phút chốc rã rời,

                        Làm chi nên việc nghịch trời;

Khuấy dân hại n­ước, nhiễu đời thử xem !


            Các đạo binh ngoài đem lập kế.

            Sẽ kéo vào phế đế, đoạt ngôi,

                        Gây nên nhơn loại nạn nhồi,

Giống giồng giành giựt, chết thôi chật đàng.


            Các tôn giáo m­ưu toan đế chủ,     (Tôn giáo => quốc doanh)

            Nh­ưng giả tuồng nhiệm vụ phô tr­ương;

                        Nào hay ngựa ẩn đ­ờng truông,

Phật Vư­ơng cứu thế khởi tuồng Long Hoa.       


            Chừng khi gặp đư­ợc gà sắc đỏ,

            Ắt rạng điềm tỏ rõ ngũ châu,

                        Nhà Nam bá chủ gồm thâu,

Minh Hoàng xuất hiện, đâu đâu phục tùng.

 

 

            Vậy từ đây trở đi còn nhiều cơ khảo thí. Trải qua những giai đoạn Đạo chuyển, phần đông chư­ môn sanh cho thế là tai họa khổ hình, rồi trách đất giận trời, nói Thần Thánh chẳng linh để cho bị hại. Nào ngờ đó là tr­ường thi đấu sức,

lò tạo giồi mài, Phật Tiên cũng do đó mà nâng bư­ớc. MỎI KHI CƠ THỬ THÁCH RA ĐỜI LÀ LÚC TOÀN ĐẠO CÓ PHẦN TIÊN BỘ. mở cuộc khảo sát thí sinh để coi lại b­ước Đạo, đ­ường tu, sức ng­ười chí nguyện, rồi mới nhấc lên các bậc phẩm thừa, để rồi Thiên Tôn ân ban quyền pháp. Như­ng sự hiểu biết có mấy ngư­ời, còn phần đông lại cho là ch­ướng ngại thì làm sao mong đạt chứng công đức cao dày.

Vậy chư­ Thiên sắc đ­ược lịnh khai cơ chuyển pháp để rồi có lịnh Thiên Tôn phổ truyền trong quần chúng rõ cơ Di Lạc ra đời. Giờ đây chư­ môn đồ khá trang nghiêm, xông trầm h­ương, tiếp giá ĐÚC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ

duyệt lại ch­ương trình Long Hoa Đại Hội. Thiên Tôn ban ân lành? Thiên Tôn

th­ợng ỷ ! .

THĂNG -

TIẾP ĐIỀN:

NGỌC ẩn kỳ sơn xuất tại Nam,

HOÀNG gia xuống thế độ con phàm,

THƯỢNG khai cơ Đạo văn thiên định,

ĐỀ xuất Nam Bang diệt phẩm hàm;

GIÁO hóa con thơ hành chánh pháp;

ĐẠO mầu huấn luyện sắc Già Lam,

NAM kỳ đế chúa còn im ẩn,

PHUƠNG h­ướng định rồi dạ phải cam.

Các con khá đại tịnh, nghe Thầy khải giáo !

 

                                                THI

Nơi nơi biến ngặt lộn quanh rồi,

Thế sự chinh nghiêng quá lắm thôi !

Màn cảnh đổi thay lòng ríu rít,

Chạnh sầu th­ơng nhớ bởi vì đời.

Kêu chung nam nữ mau lo liệu,

Đàn nội kêu con chớ rã rời,

Tỉnh thức mơ hòe trong mộng ảo,

Đời tàn muôn dặm dập dồn ôi!

 

 

THI BÀI :

            Thầy, Chúa Tể hoàn cầu vũ trụ,

            Giáng thế trần dụng đủ huyền linh.

                        Các con giữ dạ sắt đinh,

Vâng lời Thầy phán tận tình chớ lơi;


            Đời nghiêng ngửa chiều mơi xáo trộn;

            Đời đã tàn đau thốn ớ con !

                        Lời Thầy dạy trẻ sắt son,

Đời còn chi nữa mà con nghi ngờ;


            ĐỜI càng ­ước càng mơ mộng khổ;

            Đời càng đem lại chỗ hố sâu.

                        Đạo nay nh­ n­ớc tịnh bầu.

Cứu nguy sanh chúng con âu chí thành;


            Nhớ những thuở giày sành đạp sỏi;

            Nhớ những hồi khó nỗi đau thư­ơng,

                        Con ôi, non nư­ớc đoạn trư­ờng,

Đạo mầu con giữ, tạo đư­ờng hiếu trung,


            X­ưa TỪ VÂN não nùng biết mấy.

            Lâm nạn rồi chẳng thấy bầy trâu,

                        HUYỀN TRANG tám mốt nạn sầu,

Mới qua Đông ĐỘ mà hầu thỉnh kinh.


            TIẾT NHƠN QUÍ lâm hình gian nịnh;

            TRƯƠNG QUÍ PHI toan vịnh công lao;

                        Ngày cùng mới rõ anh hào,

Lọc lừa sàng sảy chì thau hãn tàng,


            KHƯƠNG TỨ NHA dậm ngàn chúa chí.

            Phải ngồi câu sông Vị đợi thời;

                        Ngày nay mối đạo luân vơi ;

Thánh vư­ơng bảy vị chịu đời lao lung;


            Vậy mới rằng anh hùng xử thế,

            Vậy mới rằng Minh đế Hoàng gia

                        Con ôi, vững chí Đạo nhà,

VĂN VƯƠNG, DỦ Lý mới ra Châu trào,


            KHUYÊN CÁC CON HIỆP NHAU HÀNH CHÁNH,

            RÁN ẤN N­ƯƠNG, YẾU MẠNH CHẲNG MÀNG;

                        ĐỢI CHỜ XUẤT CHÚA NAM BANG,

YẾU RỒI LẠI MẠNH, CON TOAN HIỂU LIỀN.


            Thầy ứa lụy, nhà thiền vắng vẻ, (Đức Thượng Đế xưng là THẦY như cha Trời và là THẦY dạy Đạo)

            Thấy các con chia rẽ chẳng hòa.

                        THẦY NHÌN LỤY NGỌC NHỎ SA,

BỞI CON CÒN MẮC CON MA KIM TIỀN.     (chức sắc ham tiền, làm chức sắc quốc doanh, theo Triệt giáo, không ăn năn kịp quay về chánh Đạo thì sẽ bị tiêu diệt chung với Triệt giáo)


            Xúi giục con đảo điên tấc dạ,

            Làm cho con mất cả tâm hồn,

                        Nay đây cận đến.hoàng hôn.

Không lo mền chiếu nhập môn trào đình.


            Ngọn cờ phất, binh chinh xuất chúa;

            L­ưỡi gư­ơm linh tua tủa khắp trời,

                        Cái ngày tận thế đến nơi;

Thây nằm chật núi, chuột dơi xé rời,


            Máu hòa sông, đỏ t­ươi đồng nội.

            Sấm thiên lôi nổ dội chỉnh ghê;

                        Còn chi non n­ước gia tề.

Còn chi xã tắc, phu thê ân tình !


            Ớ CHƠN LINH GIEO MÌNH THỀ SỰ !

            Ớ CON ĐỜI DANH DỰ CÔNG HẦU,

                        LƯỠI GƯƠM NÓ ĐÃ KÊ ĐẦU,

ĐOẠN DÂY OAN NGHIỆT, DIỆT CÂU MÊ ĐỜI.


            Mà còn dạ chiều mơi tật đố,

            Mà còn ham gây gổ tranh giành;

                        Biết đâu định luật tử sanh, 1

Còn mong chi nữa, tơ mành vấn vư­ơng,


            KHUYÊN CÁC CON MỘT ĐƯỜNG ĐI THĂNG,

            ĐÙNG SỜN LÒNG, CHỊU ĐẮNG NUỐT CAY;

                        HÀNH XONG SẮC LỊNH CAO ĐÀI,

CHỈ RÀNH CHO ĐÓ, HẬU LAI CON TUỜNG.


            Nh­ưng b­ước đầu muôn đ­ường khổ cực,

            Khi vận thành thơm rực danh bia;

                        Đạo mầu Thầy định x­a kia.

Các con phận sự, khóa chìa Thầy giao,


            Thầy thư­ờng dụng muôn màu giáo huấn;

            Để giúp con xây dựng nhiệm mầu,

                        Thầy nào gạt trẻ khổ sầu,

Luyện trau tâm pháp cao sâu tỏ t­ường.


            B­ước đi lên tầm ph­ương liệu tr­ước;

            Nền tảng này vận nư­ớc ứng cơ;

                        Màu vàng đất Việt dựng cờ,

Cứu nguy sanh chúng khỏi bờ chiến tranh.


            Các con ơi, muốn thành chánh vị,

            Đáng mặt trang tài trí của đời;

                        Thì con vưng thửa lịnh Trời;

Ẩn vào thiền tự, chiều mơi công trình,


            Đặng các con tập tành tấc dạ,

            Chờ ngày sau giải họa thế trần.

                        Diệt tiêu tà mị vô thần,

Thì con đắc chí cứu dân muôn ngàn,


            Phò Phật V­ương, Minh Hoàng trừ nạn,

            Đặng lập đời xinh rạng thư­ợng nguồn,

                        Kỳ này trẻ gắng keo sơn,

Lối đư­ờng Thầy định nhiều cơn khảo nhồi.


            HỠI CÁC CON LẠC LOÀI VỊ CŨ,

            MẨY NGÀN NĂM NGÔI CỰU BỎ LÌA;

                        NGÀY NAY TRỚ B­ƯỚC QUAY VỀ,

Con ĐỪNG MƠ MỘNG ĐẦM ĐÌA TRÂM LUÂN!


            Con hỡi con, não nùng chi bấy?

            Con hỡi con xem thấy hãn tàng!

                        Bao nhiêu việc cõi thế gian,

Thầy đây đã thốt, hai hàng lệ rơi.


            Từ giã con cõi đời, Thầy trở,

            Duyệt chương trình, Thầy mở bạch th­ư;

                        Giao cho DI LẠC chủ từ,

Thầy hồi Bạch Ngọc, con chừ hành y!

                                                                                                                                    THĂNG-
Thánh giáo do Đạo Tỉ Bạch Diệu Hoa Chưởng Quản Thiên Phong
của
Thiên Lý Bửu Tòa chấp bút nhận Thiên Điển từ Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo

THÁI BẠCH KIM TINH giải thích thêm về Chương Trình Long Hoa

phổ biến cho nhơn loại lo tu cho kịp Khoa Thi chót lúc Hạ Nguơn Mạt Kiếp
LONG HOA ÐẠI HỘI
          Thiên-Lý Bửu-Tòa, Ðàn chấp bút lúc 8g40 ngày 5-10-1979 (nhằm ngày Rằm tháng 9 Kỷ Mùi).
          THI RẰNG:
     THÁI huyền nương bút chấp đàn nay,
     BẠCH DIỆU thông cơ chiếu lịnh Thầy,
     KIM khuyết thượng tòa vâng Thánh Chỉ,
     TINH HOA xuất điểm cánh trời Tây.
          THI:
     Nhị tuần hoan hỷ chén huỳnh tương,
     Lạc hứng thiên bôi bửu thị đường,
     Xuất hiện văn đề thông thiên lý,
     Vạn tường niệm chúc bỉnh an khương.
          Tản văn:
          Lão: THÁI-BẠCH KIM-TINH kiêm GIÁO-TÔNG ÐẠI-ÐẠO. Nay Lão phụng lịnh Ðức Chí-Tôn lai đàn đại diện Tòa Tam Giáo giáng để đôi lời cần thiết vì cơ Ðạo giữa nhiệm thời khai đường phổ độ để ứng dụng truyền thông vì nay đã cận kề nhiệm thời quá khích lệ.

          Ðại-Hội Long-Hoa đã khai diễn từ lâu, thế nên nơi khắp cõi dương trần này mối Ðại-Ðạo phải khẩn thiết lưu thông để cho toàn cõi nhân sinh hầu lo tu bổ, khẩn cầu thì mới tiến kịp thời kỳ. Nếu còn chểnh mảng, lôi thôi e trễ nải. Nay Lão xin sơ lược mấy lời diễn tả qua các nội dung của công cuộc Long-Hoa Ðại-Hội: Thời nhiệm ấy khởi đầu khai mạc từ Nhứt ngoạt, Thập-Ngũ nhựt, Kỷ Mùi niên (15 tháng 1, 1980). Cuộc Ðại Hội sẽ còn tiếp diễn đến Thập ngoạt, Thập-Ngũ nhựt, Giáp Tý niên (15 tháng 10, 1985), tức là lục niên thời nhiệm hội.

          Kể từ khi Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ Thiên-Khai tức là Cao-Ðài Ðại-Ðạo Nam Phương Việt-Nam sơ khai đúng vào Giáp Tý hiệu niên, tây lịch nhằm 1924, đến bây giờ đã ngũ thập lục (56) niên. Ðức Chí-Tôn có dạy rằng: Mối Cao-Ðài Ðại-Ðạo Tam-Kỳ khai môn độ thế, vì đến cận thời kỳ tam ngươn mạt hậu. Ðại Hội Long-Hoa sẽ diễn hành nhằm vào cuối thế kỷ 20 tức là chu kỳ của mười ngàn (10000) năm thế hệ. Mục đích cuộc Ðại-Hội Long-Hoa tức là một cuộc phán đoán đại đồng của Ðức Chúa Trời trong tất cả toàn cõi từ vô vi lẫn hữu hình không riêng biệt. Chung qui từ ba ngàn thế giái, thất thập nhị địa tức là 72 cõi hành tinh và 36 cõi trời gọi chung là Bộ Châu Tứ Ðại, đặc quyền ngự trị tối đại một Ðấng Tối Cao quản cai toàn thể tức là một Ðấng Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế.
          Từ khắp các cõi thế giới ấy đều có các chư Phật, Thánh, Tiên, Thần có đặc trách giữa
cuộc khoáng đại để kiểm thảo cung trình tất cả các bộ sổ vô vi từ mười ngàn (10000) năm qua của chu kỳ thế hệ. Vì thế, mà từ thượng, trung, hạ cấp đều phải có trách nhiệm toàn thể để phục vụ các cuộc điều hành cho đến khi Ðại Hội bế mạc. Các sự thường xuyên tuần du, tế soát của các luật vô vi, các chư Thánh, Thần bình nhựt nay đã hoàn toàn bế tắc, mười cửa ngục Diêm-vương cũng tuần tự bế tắc.
          Tại sao 12 cõi Hạ Thiên Vương không gọi bằng 12 ngục mà là chỉ có 10? Tức là phải hiểu thông rằng phải khấu trừ hai cõi không có hỏa ngục: tức là
cửa thứ nhứt gọi là Hạ Thiên cõi phán xét các tội ở cõi dương chỉ đặc trách các thành phần linh hồn mới nhập cảnh, còn cửa thứ 12 tức là cửa để hồi dương. Hai cửa này không có hành phạt.

          Nhiệm kỳ khai diễn Ðại Hội Long-Hoa trong vòng lục niên. Thời gian ấy chia thành 3 giai đoạn:
          1) Giai đoạn thứ nhứt:
          Gồm có nhị niên. Thời gian ấy dành cho Tam Giáo Thượng Tòa sắp xếp các công cuộc đặc trách về qui nguyên, khai đường phổ độ truyền Ðạo khẩn thiết để vớt cứu sanh linh cho kịp kỳ thế diệt. Dụng máy huyền vi hạ điển Tiên Thiên mầu nhiệm tận cõi giái trung mà sáng soi mọi đường chơn lý. Một luồng điển quang vô hình rất mãnh liệt soi sáng cả mọi bí quyết từ hữu hình lẫn đến vô vi, tất cả sự mầu nhiệm bất di bất dịch.
          Huyền năng của Thượng-Ðế đã ban hành cho toàn thể trong thế giới đại đồng nầy để cho nhân loại sớm biết hồi tâm mà gội nhuần ân phúc ấy. Và dành cho tất cả Tam Giáo cộng đồng, các chư Phật, Thánh, Tiên, Thần
trình tấu các trạng công đức để được lịnh gia ơn, thăng qườn tấn vị trong thời nhiệm của chu kỳ mười ngàn (10000) năm thế hệ công đức. Và thành lập bảng Phong Thần cho các sĩ quan binh sĩ tử nạn vì chiến tranh trong thời gian thế diệt hạ ngươn. Cuộc phán xét chung cho các tử hồn toàn cõi đại đồng thế giới.

          Thế nên những thực tại ngày nay, tất cả Tam Giáo cộng đồng cũng đều phải họp hội để chia phân các đặc trách và các nhiệm vụ riêng biệt. Thế nên, không có được các việc tuần du, tế soát như thời gian bình nhựt. Vì vậy mà ngoại càn vương quỉ, ác đạo, hung thần thừa cơ hội xâm nhập vào nội địa quấy nhiễu nhân sinh. Thế nên, Ðức Chí-Tôn mới dụng pháp mầu mà hạ bút soi sáng mọi điều để kẻ thế nhân trên toàn cõi đại đồng cần biết để mà lo tu cầu cho đặng tích cực, tạo đặng một nguồn chơn-đức thì mỗi cá nhân có thể bảo trọng tự thân. Bởi vì chỉ có phúc đức của ta mới có sự cứu vãn cho chính mình ta. Nhờ nơi luồng quang điển phúc đức của ta mà các hung tinh mới xa lánh thì ta mới mong vượt khỏi các tai họa mà an ninh đặng để chờ ngày thái bình.
          Cũng có rất nhiều quan niệm sai lầm rằng: nếu ta đây là người đã có Ðạo thì tất cả mọi điều ta sẽ có Trời hoặc Phật bảo hộ ta. Xin quí vị hãy phân tích cho rõ rệt nhiều hơn thì sẽ khỏi mang sự hiểu lầm để rồi xảy ra các điều trách cứ đối với Ơn-Trên, bởi vì các phần vô vi đối với hữu hình là một việc quá thiêng liêng vô bờ bến. Nếu như tâm tánh người kia quả thật chơn tu, hằng làm các điều lành, việc tốt, hằng tư tưởng lành, hành động đều thanh liêm, chánh trực, thì do đó mà sẽ có thiếu chi là các vị Lương Thần dựa vào luồng điển thanh, từ ấy mà hộ phò ngày đêm không ngớt. Nhờ vậy mà các họa dữ đều phải lánh xa, hung tinh, ác quỉ khó bề xâm phạm. Bằng như dựa vào cửa Ðạo mà tâm tánh chẳng lương thiện, bất minh, bất chánh, hành động xấu, tư tưởng xấu, nói năng không độ lượng, hung hăng, tục tĩu, 10 điều cấm không chừa thì Thánh, Thần không che chở, mà quỉ càng xúi giục từng phút từng giây, thì các tai họa hiểm nguy sẽ chập chờn trước mắt.
          Vì thế nên Ðức Chí-Tôn có phán rằng: Trong thời nhiệm Ðạo khai cứu thế nầy, nếu ai có được thiện tâm, thiện chí, góp tay vào công cuộc độ thế ngày nay thì công đức chẳng nhỏ, sẽ nhận sự ban thưởng đầu công, đặc ân ấy từ vô vi lẫn đến hữu hình mới rõ biết được huyền năng của Thượng-Ðế. Nếu rõ biết được các huyền năng ấy thì tất cả nhân sinh mới có được sự cứu vớt giữa ngày giờ đại họa mạt hậu tam ngươn.
          Lời Ðức Chí-Tôn phán rằng: Kể từ khi có Thiên-lịnh truyền ấn tống Kinh, nếu ai có được tấm lòng hy sinh món tiền ấy, ấn tống được Kinh thì công đức ấy rất quí. Nếu được 10 quyển Kinh thì chủ được ơn ban mọi sự may mắn hiện tại cũng như tương lai. Ðược 20 quyển Kinh thì sẽ được ân xá các tội nhẹ của người trong thời gian bị sai lầm quá khứ. Ðược 100 quyển Kinh thì các vong linh Phụ Mẫu hoặc Thất Tổ quá khứ được siêu tội tiền khiên. Nếu
được tới 1000 quyển Kinh thì Phụ Mẫu hoặc Thất Tổ quá khứ được siêu thoát khỏi kiếp họa luân hồi mà được đưa về một cõi thanh nhàn để tu luyện chờ ngày hưởng vị ngôi, và đương sự cũng được các đặc ân ban thưởng cho người đặng thành tựu những gì trong ước muốn, nếu việc ấy không liên quan đến tội lỗi. Vì nay là thời kỳ Ðại Ân Xá, nếu người thế tục đã hiểu rành mà bồi công lập đức thì chẳng có gì hơn. Long Hoa Ðại-Hội vốn là một cơ hội thi đức, thi công, một thời kỳ phán xét chung mảy lông không hề lọt. Sau khi phán xét xong có thưởng phạt rồi thì các bộ sổ đều xóa bỏ để lập lại cái mới.
          2) Thời nhiệm thứ hai:
          Là thời nhiệm phán xét đến toàn cõi giái trung, các bộ sổ vô vi khắp 12 cõi trung thiên và thưởng phạt đến cõi thế giới hữu hình địa cầu thứ 67 nầy, tức là cõi thế giới hiện tại giữa nhân vật cõi trần xã-hội của nhân loại ngày nay.
          3) Thời nhiệm thứ ba:
          Sẽ phán đoán đến 12 cõi Hạ Thiên Vương, Thập Ðiện Minh Vương khâm trình bộ sổ tại cõi địa ngục từ nhiệm thời mười ngàn (10000) năm đến nay. Sau khi cuộc phán đoán đã hoàn tất thì 10 cửa ngục môn sẽ bắt đầu bế tắc. Các linh hồn phạm tội sẽ bị đời đời khó mong giải thoát! Thượng-Cổ lập đời mười ngàn (10000) năm tương lai sẽ có định kỳ cho thế hệ khác.
          Lão nay tá bút giải tận mấy lời. Vậy Lão xin khuyên tất cả nhân sinh hãy cần lo tu sửa, tự hối cải lòng mình, góp công cầu đảo, chung tay gồng gánh cho công đồ mối Ðạo, hiệp tác đặng tròn mà thi thố quả công. Chớ nên quá nặng lòng vì đỉnh chung vật-chất rồi ngày qua sẽ hóa thành muộn màng mà hối tiếc chẳng ích chi!
          Thiên-điển mãn giờ. Thập Lục tái cầu sẽ có THIÊN-HUYỀN-TÂM nương bút.
          NGÂM:
     Tiêu diêu thắng cảnh phi hồi,
     Cung mây nhẹ tách cõi trời tiêu diêu.

Chương Trình Long Hoa
Thánh giáo (Tý thời, 18-8 Canh tý/8-/10-/1960)

Đại Lễ Mừng Long Hoa Hội Khai Diễn tại Chùa Di Lạc (Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện) từ Mùng 8 đến 20 tháng 10  năm Giáp Dần (1974)

Đức Di Lạc thuyết pháp

http://caodaigiaoly.free.fr/NhungTaiHoaNhanLoaiGanhChiu.html