Trận Chiến Ðấu Bi
Hùng của Trường Thiếu Sinh Quân Vũng
Tàu Tháng 4 1975





Tại ngôi Trường Mẹ T.S.Q.
Vũng Tàu, tôi đã được
nuôi dưỡng, giáo dục suốt 7 năm
trường từ khi tôi là một chú
bé 11 tuổi rưỡi đến khi tôi được 18
tuổi rưỡi.

Một lớp của liên lớp
11 niên khóa 1973-1974 chụp
trước dãy phòng học tại khu
văn hóa của Trường Mẹ. Cậu bé
Trần Quốc Toản là Thánh Tổ của
tập thể TSQ Vũng Tàu. Hầu hết,
các em TSQ đều sống nội trú
trong trường ít nhất là 4 năm
để trau dồi văn hóa, chính
trị, quân sự, võ thuật,
âm nhạc, và thể thao. Tạm biệt,
vĩnh biệt các bạn học của tôi,
của tháng năm vui buồn thời ấu thơ.

Đội Quốc Quân Kỳ
của trường T.S.Q. đang tiến vào
vũ đình trường trong ngày
khai giảng niên học mới. Trong
những ngày lễ trọng đại, tất cả
T.S.Q. đều được mặc quân phục đại
lễ.

Các
chú lính tý hon
Thiếu Sinh Quân VNCH trong bộ
đại lễ đang diễn binh tại Thủ
Đô Sài Gòn trong
ngày Quân Lực 19/06
hàng năm. Bé tý
mà đi cơ bản thao diễn cũng
oai nghiêm, chững trạc lắm,
TSQ à. 1,2,3,4; 1,2,3,4...

T.S.Q. diễn binh
trong khuôn viên
trường vào mỗi
sáng thứ Hai hằng tuần
sau buổi lễ chào quốc kỳ
V.N.C.H..

Các chú
lính tý hon
đang tập tành sống
đời sương gió, mưu
sinh thoát hiểm, đời
quân ngũ.

Trong bộ quân
phục đại lễ, các
chú lính
tí hon Thiếu Sinh
Quân Vũng
Tàu và xe
hoa của đơn vị đang diễn
hành ngoài
đường phố của Thị
Xã V.T.
nhân ngày
lễ Phật Đản. " Tự thắng
để chỉ huy " là
châm ngôn
của các
chú lính
TSQ/VNCH. I'm proud to
be one of TSQ cadets
before 30/04/1975 .

T.S.Q. biểu diễn
võ
Thái Cực Đạo
trong ngày
khai giảng
niên học mới,
ngày tiếp
nhận tân
T.S.Q, và lễ
ra trường của
khóa
đàn anh
T.S.Q..

Bên
cạnh võ
Thái Cực
Đạo, T.S.Q. cũng
được rèn
tập võ
Nhu Đạo.

Đội
túc cầu
của trường
T.S.Q. Vũng
Tàu.

Khu
vực phạn
xá của
trường T.S.Q..
Nơi đây
có đầy
đủ bếp
lò,
phòng
chứa lương
thực,
vài
dãy
phòng
ăn dành
cho T.S.Q.
trong
các
buổi ăn trưa,
buổi ăn
chìều.

Bộ
quân
phục
tác
chiến
màu
olive được
các
T.S.Q. sử dụng
trong những
buổi học
quân sự,
chính
trị vào
ngày
thứ năm mỗi
tuần lễ.

Thiếu
Sinh
Quân (
Junior
Military
cadets ) VNCH
diễn binh
trong
Ngày
Quốc
Khánh
1-11-1966 tại
Thủ Đô
Sài
Gòn.

Phái
đoàn
T.S.Q. Vũng
Tàu
tham quan
trường
Võ Bị
Quốc Gia Việt
Nam tại
Đà Lạt
vào năm
1968.
T.S.Q.
tại trường
Võ Bị
Liên
Quân
Đà Lạt
năm 1968.
Đã
có rất
nhiều T.S.Q.
rời Trường Mẹ
và thụ
huấn tại
trường
V.B.Q.G.
Đà Lạt.
Binh nghiệp
trọn đời
là
truyền thống
của tập thể
T.S.Q./V.N
.C.H..
Một
phù
hiệu
khác
của tập thể
T.S.Q. /
V.N.C.H..
Bên trái: Dãy lầu Khu Văn
Hóa,
bên
phải:
Phòng
ngũ Tiểu
Đòan I
và II
TSQ
************

Dãy lầu
phòng
ngũ Tiểu
Đoàn I
và II
TSQ

Thiếu sinh
quân
QLVNCH

++++++++++++++
Từ bên kia bờ sông Bến Hải, vết
xích
chiến xa T-54
và
các sư
đoàn
Bắc Việt
đã
xoá
nát văn
kiện Hiệp
Ðịnh Ba
Lê 1973
tiến dần về
Nam. Như
là một
định mệnh oan
nghiệt, cả
nước bị
ém chặt
và bức
tử theo
ván
bài
chiến lược
quốc tế được
quyết định từ
ngoài
cương thổ Việt
Nam. Hoa Kỳ
làm
ngơ, thế giới
cúi mặt
trong
lúc
lãnh
thổ miền Nam
lần lượt lọt
vào tay
quân đội
chính
quy Bắc Việt.
Quảng Trị mất,
kế đến
là Huế,
Đà
Nẵng, Qui
Nhơn, Cao
Nguyên,
Nha Trang,
Phan Thiết…
Và rồi
đầu
tháng
Tư 1975, mặc
dầu bị Sư
Đoàn 18
Bộ Binh của
tướng Lê
Minh Đảo cầm
chân
quyết liệt tại
Long
Khánh
suốt 12
ngày
đêm, Bắc
quân lại
tiếp tục
tràn về
ven biên
ngoại ô
Sài
Gòn.
Quân ta cứ rút, cứ
rút.
Vũng
Tàu,
những
ngày
cuối
tháng
tư năm 1975,
một trong
những phần
thân thể
còn lại
của Tổ Quốc,
cũng đang
lên cơn
sốt hốt hoảng
và
náo
động.
Dòng
người di tản,
cả lính
lẫn dân,
đổ về Vũng
Tàu từ
cả hai mặt,
đường bộ cũng
như đường
biển. Vũng
Tàu
chênh
vênh
bên bờ
nước, tuyệt
vọng,
cùng
đường.
Ngày 26
tháng
4, quân
đội miền Bắc
tấn chiếm
Biên
Hoà,
Bà Rịa,
sau đó,
cầu Cỏ May nối
liền Bà
Rịa và
Vũng
Tàu bị
giật sập. Vũng
Tàu co
ro trong thế
cô lập,
chờ chết.
Trường
Thiếu Sinh
Quân,
mặc dù
toạ lạc ngay
cửa ngõ
của thị trấn,
nhưng bị ngăn
cách
bởi những
vách
tường
đá
kiên cố
bao quanh,
những giao
động âu
lo, tuyệt vọng
từ một Vũng
Tàu hỗn
loạn đã
không
lọt được
vào
trường.
Các
Thiếu Sinh
Quân vẫn
sinh hoạt đều
đặn như mọi
ngày.
Thiếu Sinh
Quân
liên lớp
12 (lớp người
viết), đang
trong thời
gian học thi
tốt nghiệp,
vẫn cắm
cúi
miệt
mài với
bài vở.
Trong thời
gian
này,
phần lớn
các
Thiếu Sinh
Quân lớp
nhỏ cư ngụ ở
các
vùng
Sài
Gòn,
các
tỉnh
vùng 3
và
vùng 4
đã được
nhà
trường cho về
với gia
đình.
Các
Thiếu Sinh
Quân ở
vùng 1
và
vùng 2
phải ở lại
trường do
tình
hình
chiến sự rối
ren hay
đã mất
vào tay
Bắc
quân.
Không
khí
nhà
trường
vì thế
càng
tăng vẻ
yên
tĩnh, nặng nề.
Cái
nặng nề
và
yên tĩnh
đó trở
nên ngột
ngạt và
căng thẳng dần
khi
chúng
tôi nhận
ra những
nét lo
âu, bức
xúc
trên
gương mặt của
các
cán bộ,
nhân
viên cơ
hữu của
trường.
Ngày
28
tháng
4,
chúng
tôi được
lệnh tập họp
sau bữa ăn
chiều. Trung
Tá
Ngô Văn
Dzoanh, Chỉ
huy trưởng,
thông
báo
tình
hình
khẩn cấp, ban
hành
lệnh giới
nghiêm
và
tuyên
bố:
-
Các em
không
có
gì phải
rối loạn, lo
âu.
Nhà
trường
đã
có kế
hoạch di tản!
Mặc
dù
còn
trẻ, nhưng
chúng
tôi
đã cảm
thức
cái
nguy cơ,
cái bất
thường, tuyệt
vọng của
tình
hình
đất nước trong
những
ngày
qua, nên
dù
đã được
chỉ huy trưởng
trấn an,
chúng
tôi cũng
đã phải
trải qua một
đêm mất
ngủ. Tổ quốc,
tương lai, gia
đình,
bè bạn
và
ngôi
trường
thân
yêu
này
ngày
mai sẽ ra sao?
Chúng
tôi trằn
trọc đến
sáng,
khi mặt trời
lên,
trên
gương mặt của
đám
Thiếu Sinh
Quân
chúng
tôi, ai
cũng hiện
lên
những
nét lo
âu, sợ
sệt của
đám
gà con
đang bối rối
chui
rúc
dưới
lông
cánh
gà mẹ
trong
lúc
diều hâu
đang lờ lững
lượn
trên
vòm
trời .
Khung
trời rộng
dường như nhỏ
dần lại
trên
khoảng
không
gian trường
Thiếu Sinh
Quân
sáng
ngày 29
tháng
Tư,
cùng
lúc
những lo
âu của
anh em lại
trương lớn dần
và căng
thẳng
thêm.
Bỗng chợt
âm thanh
của đạn trọng
pháo từ
đâu
xé
gió
rít qua
không
gian…
và Ầm!
Ầm! Tiếng nổ
ù tai
của những
viên đạn
rớt vào
chân
núi
đài
viba ngay đằng
sau lưng
trường.
Đại
Úy
Lê Viết
Đắc,
cán bộ
tiểu
đoàn
trưởng Tiểu
Ðoàn
Hùng
Vương,
liên lớp
12, rút
súng ra
khỏi vỏ, chạy
ngược
xuôi ra
lệnh cho
các
Thiếu Sinh
Quân nằm
sát
xuống đất để
tránh
miểng đạn.
Trong bối cảnh
của tiếng
những mảnh đất
đá rơi
xào xạc
trộn lẫn
âm thanh
vang dội của
đạn trọng
pháo,
ông như
một con
gà mẹ
đang
dáo
dác bảo
vệ đàn
con.
Không
biết mục
tiêu của
những
viên
trọng
pháo
đó
là ai,
là
trường Thiếu
Sinh
Quân hay
là đơn
vị đồn
trú tại
đài
viba gần
trường, nhưng
âm thanh
của tiếng đạn
nổ và
cảnh
núp đạn
lần đầu
tiên kể
từ ngày
vào
trường
đã gieo
cho những đầu
óc
còn non
nớt chỉ biết
ăn, học
và chơi
của
chúng
tôi
cái cảm
giác kỳ
lạ, hoang
mang, lo sợ về
sự sống
và sự
chết.
Chúng
tôi vẫn
nằm yên.
Địch
pháo
thêm
vài
đợt, đạn rơi
bên
ngoài
trường, sau
đó rồi
im.
Tình
hình
yên tĩnh
trở lại.
Khoảng
11 giờ trưa,
trong
cái cảm
giác
hụt hẫng,
hoang mang,
toàn
trường như bất
động lắng nghe
tiếng Đại
Úy
Hoàng,
cán bộ
liên
đoàn
trưởng,
thông
báo qua
loa
phóng
thanh:
-
Toàn
trường chuẩn
bị di tản!
Các
thiếu sinh
quân cấp
trưởng trang
bị vũ
khí
và nhận
nhiệm vụ hướng
dẫn và
bảo vệ
đoàn
quân.
Tập họp kiểm
điểm
quân số!
Chuẩn bị
lên
đường khi
có
lệnh.
Thế
là hết
! Cơn
bão
lịch sử sắp
tràn
qua ngôi
trường
thân
yêu đầy
những kỷ niệm
của tuổi thơ.
Lệnh ra được
tuân
theo răm rắp.
Khoảng xế một
giờ trưa,
toàn
thể Thiếu Sinh
Quân bắt
đầu di chuyển
khỏi
nhà
trường
cùng
với tất cả
cán bộ,
nhân
viên.
Đoàn di
tản bắt đầu
rời trường
theo thứ tự từ
nhỏ đến lớn.
Là
Thiếu Sinh
Quân
tiểu
đoàn
trưởng Tiểu
Ðoàn
Hùng
Vương,
liên lớp
12, tôi
đi hàng
đầu
cùng
các em
nhỏ. Đội ngũ
Thiếu Sinh
Quân
lặng lẽ di
chuyển dưới
ánh
nắng Vũng
Tàu
chói
chang. Đa số
anh em
là
những đứa trẻ
mất cha, mất
mẹ trong chiến
tranh,
ngôi
trường Mẹ
Thiếu Sinh
Quân trở
thành
tổ ấm đầu đời
và
tương lai, nay
phải đoạn
lìa,
phải ra đi,
những
trái
tim non
đã bước
đi những bước
bùi
ngùi,
vương vấn. Đi
về đâu?
Với ai?
Thông
báo
toàn
trường sẽ được
di tản bằng
tàu
không
là
câu trả
lời trọn nghĩa
cho những
ý nghĩ
mênh
mang trong đầu
những đứa trẻ
chưa
thành
người
lính.
Đi được nửa
đường
thì đột
nhiên
chúng
tôi bị
một số binh sĩ
Thuỷ
Quân Lục
Chiến chặn
lại. Trung
tá
Dzoanh đến
tiếp chuyện
với người chỉ
huy
toán
lính.
Chúng
tôi
không
rõ nội
dung cuộc
nói
chuyện, song
thấy
không
khí
và sắc
mặt của cả hai
bên đều
lộ vẻ căng
thẳng. Qua
tiếng được,
tiếng mất,
chúng
tôi
đoán
Thuỷ
Quân Lục
Chiến
đã
chiếm giữ bến
cảng để họ di
tản. Họ buộc
chúng
tôi phải
quay trở lại
trường. Cuối
cùng,
lệnh quay về
trường được
ban xuống.
Trên
đường về,
tâm hồn
của tất cả mọi
người đều trĩu
nặng. Bắc
quân
càng
lúc
càng
sát
nách,
đường
thoát
bị tắt nghẽn,
sinh lộ
càng
lúc
càng
hẹp dần.
Không ai
bảo ai, tất cả
mọi người đều
thấy
cái cơ
may được di
tản thật
là mong
manh
Về đến
trường,
chúng
tôi được
tập trung ở
sân
banh. Chỉ huy
trưởng
thông
báo
là kế
hoạch di tản
được thay đổi.
Theo kế hoạch
này,
chúng
tôi sẽ
được bốc tại
trường bằng
trực thăng để
đưa ra Hạm
Đôi 7 ở
ngoài
khơi Vũng
Tàu.
Thời gian như
chậm lại trong
giây
phút
chờ đợi nặng
nề. Cả
đám
chúng
tôi
cùng
bật dậy như
những chiếc
lò so
khi thấy một
chiếc trực
thăng
đáp
xuống
sân
trường. Niềm
hy vọng lại
nhen
nhúm
bốc lên
cùng
đám bụi
mù tung
cao theo
cánh
quạt.
Hành
khách
của chuyến
không
vận đầu
tiên
này gồm
một cố vấn Mỹ
mặc thường
phục, Trung Sĩ
1 Ngộ,
cán bộ
trường,
và 7 em
Thiếu Sinh
Quân
thuộc Tiểu
Ðoàn
Quang Trung,
là
liên lớp
nhỏ nhất của
trường.
Chuyến
bay cất
cánh
rời khỏi vận
động trường.
Chúng
tôi thẫn
thờ tìm
chỗ ngồi chờ
đợi. Thời gian
ngóng
đợi kéo
dài
khoảng một
tiếng đồng hồ
mà
chúng
tôi
có cảm
tưởng như
là một
thế kỷ. Anh em
nhìn
lên bầu
trời xanh chờ
bóng
dáng
của chiếc trực
thăng, chờ
âm thanh
của những
cánh
quạt. Chiếc
trực thăng cứu
tinh
ngày
càng
biền biệt tăm
hơi khi buổi
chiều
càng
lúc
càng
ngả
bóng
dần trên
sân
trường.
Nhìn
lên cột
cờ, lá
cờ vàng
ba sọc đỏ của
Tổ Quốc vẫn
còn
tung bay.
Nhìn
xuống
sân
trường, đoạn
trường, ngao
ngán.
Khoảng 6
giờ chiều,
chúng
tôi sững
sờ nhìn
chiếc xe chở
Trung
tá Chỉ
huy trưởng lăn
bánh
vội
vàng
rời khỏi cổng
trường.
Trái
tim nghẹn đắng
một nỗi uất ức
kèm
theo một nỗi
chới với hoảng
hốt của một
đứa bé
lạc mẹ giữa
buổi chợ
đông
nghẹt những
người. Loa
phóng
thanh một lần
nữa xác
định một thực
tế phũ
phàng:
- Kể từ
giờ
phút
này,
chúng
tôi
không
còn
trách
nhiệm với
các em
nữa,
các em
hãy tự
lo lấy bản
thân!
Thế
là
quá
rõ.
Chúng
tôi
đã bị
bỏ rơi.
Ngôi
trường
này
là
nhà.
Các
cán bộ
là
người
thân.
Giờ đây
chúng
tôi biết
phải
làm
gì,
biết đi về
đâu. Thế
là như
một bầy ong vỡ
tổ,
chúng
tôi tung
ra tản
mát
chạy khỏi
trường. Chạy
đi đâu?
Chẳng biết !
Tại sao chạy?
Chẳng hiểu!
Thấy bạn
bè chạy
thì
mình
cũng chạy. Thế
thôi!
Tôi
và
Nguyễn Lương
Thịnh, biệt
hiệu Thịnh
nhóc
(hiện ở tại
Việt Nam),
cùng
chạy chung.
Tay cầm
súng,
tay gạt
các
nhánh
sậy che phủ
con đường
mòn sau
núi,
chúng
tôi chạy
hộc tốc như bị
cọp đuổi sau
lưng.
Chúng
tôi ra
tới Bãi
Trước
và nhận
ra tình
trạng
náo
loạn
ngoài
đường phố,
tiếng đạn nổ
tứ tung,
dân
chúng
ai cũng
đóng
chặt cửa, trốn
trong
nhà.
Thật
không
khác
một đám
loạn
kiêu
binh
Tôi
thấy ở
phía
trước mặt,
cách
chỗ tôi
đứng khoảng
200 thước, một
Thiếu Sinh
Quân
cũng cầm
súng
như tôi
bị một người
lính,
không
biết là
ta hay địch
giả dạng,
hành
hung và
giật lấy khẩu
súng
của em.
Tôi
không
hiểu vì
sao. Hoảng hốt
tôi
và
Thịnh vội
vàng
vất
súng
và quay
ngược chạy trở
về trường.
Trong
phút
giây
này,
có lẽ
chỉ có
trường tạm
thời
còn
là tổ
ấm dung
thân.
Mệt và
khô cổ
đến đắng họng.
Chẳng hiểu sao
chúng
tôi lại
có thể
chạy
liên tục
từ trường ra
bãi
trước
và từ
bãi
trước trở về
trường như
vậy.
Về đến
gần trường,
tôi chợt
nhớ ra gia
đình
người bạn
cùng
liên lớp
là
Tô
Trích
Long
Vân. Cha
của Vân
là
Thiếu
Úy
Tô
Trích
Mầu, một
cán bộ
của trường.
Gia
đình
của Vần nằm
trong khu gia
binh gần
trường. Thế
là
chúng
tôi chạy
đến gõ
cửa xin tạm
náu. Bố
mẹ Vần dọn cơm
cho
chúng
tôi ăn.
Mẹ Vần
nhìn
Thịnh
và
tôi đang
ngấu nghiến
ngồi ăn với
ánh mắt
xót
thương,
trìu
mến. Tôi
không
bao giờ
quên
được
ánh mắt
của bà.
Có lẽ
bà đang
nghĩ tội
nghiệp cho hai
đứa
chúng
tôi.
Là
những bạn học
cùng
lớp, Vần
còn
có gia
đình
ruột thịt ở
bên
cạnh, hai đứa
chúng
tôi
thì tứ
cố vô
thân,
không
biết sẽ
trôi dạt
về đâu
trong cơn biến
loạn. Xong bữa
cơm,
nhìn ra
ngoài
trờI,
đêm đen
đã
trùm
kín
không
gian tự
lúc
nào.
Căn nhà
như thu
mình
trong nỗI lo
âu. Mọi
người cứ ngồi
nhìn
nhau chẳng ai
nói một
lời.
Trong
lúc mọi
người đang
chìm
đắm trong
những suy tư
riêng,
tôi bỗng
nghe tiếng loa
phóng
thanh từ trong
trường vọng
lại:
-
Các anh
Thiếu Sinh
Quân lớp
lớn xin trở về
trường!
Chúng
em cần
các anh
lắm.
Tiếng
gọi của em nhỏ
Thiếu Sinh
Quân
vang vọng
trong
màn
đêm,
thúc
bách
não
nuột như tiếng
kêu chim
chíp
của gà
con mất mẹ,
làm cho
tôi
vô
cùng
xốn xang, bức
xúc.
Các em
chẳng
có nơi
nào
dung
thân,
chỉ còn
biết
trông
cậy vào
các anh
lớn đùm
bọc. Là
tiểu
đoàn
trưởng tiểu
đoàn
lớp lớn nhất,
tôi nhận
ra
trách
nhiệm của
mình.
Tôi
không
thể ngồi
yên khi
nghĩ đến bạn
bè
và
đàn em
đang ở trong
trường.
Có thể
lúc
này Bắc
quân
đã
có mặt
đâu
đó gần
Vũng
Tàu hay
quanh trường,
nhưng tiếng
gọi loa
đã
khiến
tôi phải
đứng lên
và
cương quyết
trở lại trường
với các
em. Bố Mẹ Vần
lo lắng
khuyên
chúng
tôi đổi
ý.
Tôi
cám ơn
Bố Mẹ Vần
và
nói
trước khi
cùng
Thịnh
phóng
vào
đêm tối:
- Tụi
con
không
thể bỏ
các em
được!
Về đến
trường,
các bạn
cùng
liên lớp
với tôi
như Lâm
A Sáng,
Phạm Ngọc
Trình,
Nguyễn Văn
Minh cũng
đã
có mặt.
Tôi nhận
thấy
các bạn
đã
phá cửa
kho vũ
khí của
trường
và đang
hì hục
khuân
vác
súng
đạn ra
các ổ
canh
gác.
Một
toán
các
Thiếu Sinh
Quan
khác
thì
đang xả thịt
một con
bò, lui
cui nấu cơm
và luộc
thịt. Thế
là
tôi vớ
lấy một
cái
nón
sắt, chụp một
khẩu carbine
cùng
với Thịnh,
cũng trang bị
y hệt,
lúc
nào
cũng kè
kè
bên
cạnh. Hai đứa
chúng
tôi tự
xem
trách
nhiệm tổ chức
canh
gác như
nhiệm vụ được
anh em giao
phó.
Nhìn
lên bầu
trời đen thẳm
với nỗi
cô đơn
chợt đến, chợt
đi, tôi
suy nghĩ lan
man với một
bài
toán
không
đáp số.
Vì
trách
nhiệm của anh
lớn bảo bọc
đàn em,
chúng
tôi sẵn
sàng
cho một cuộc
chiến. Cuộc
chiến
này sẽ
đi về
đâu ?
Chúng
tôi
không
biết. Tương
quan lực lượng
nghiêng
lệch ra sao?
Chúng
tôi
chẳng cần
bàn.
Không ai
trong
chúng
tôi tin
là
mình sẽ
chiến thắng,
nhưng
chúng
tôi vẫn
sẽ chiến đấu,
ít nhất
chúng
tôi cũng
phải
đánh
trả
đích
đáng
những ai muốn
chiếm lấy
ngôi
trường
này,
nơi dung
thân
cuối
cùng
của
chúng
tôi.
Tôi
và
Thịnh
vác
súng đi
một
vòng
toàn
trường. Thăm
các
chốt và
các
chòi
canh.
Các
chốt canh
gác
các
hướng
xâm nhập
chủ yếu đều
được trang bị
vũ khí
cộng đồng với
xạ thủ, phụ
tá xạ
thủ và
nhân
viên
tiếp đạn.
Nhìn
những Thiếu
Sinh
Quân
đàn em
chững chạc, tự
tin bên
những ổ
súng,
thành
thạo nạp những
băng đạn
vào
súng,
sẵn
sàng
khai hoả,
tôi bỗng
thấy
các em
chợt lớn
lên như
những anh
hùng
Phù
Đổng.
Tôi đặt
mật khẩu dặn
các
chốt canh phải
học thuộc, nếu
thấy
bóng
người
thì
lên
tiếng hỏi. Trả
lời
không
đúng
mật khẩu
là
“quạng” liền
lập tức.
Toàn
trường đặt
trong
tình
trạng
báo
động và
sẵn
sàng
chiến đấu bất
cứ lúc
nào.
Sau khi
dạo vài
lần, nhận thấy
các
chốt canh
đã được
chuẩn bị đạn
dược chu
đáo,
mật khẩu
thông
thuộc, tất cả
mọi người đều
được
phân
phát
khẩu phần đầy
đủ. (
Nhìn
càng
bạn
“chén”
bữa cơm nửa
khê, nửa
sống một
cách
ngon
lành,
tôi
có cảm
giác
bữa cơm
hôm nay
có lẽ
là bữa
cơm ngon nhất
kể từ
ngày
nhập trường
của các
bạn.)
Tôi
và
Thịnh quay
lên
phòng
làm
việc của chỉ
huy trưởng
nghỉ dưỡng
sức.
Lúc
này
Thịnh
quá
mệt, chẳng
còn tha
thiết
gì nữa.
Cậu ta chui
ngay
vào một
góc
và chỉ
vài
phút
sau là
đã bắt
đầu
“kéo
đờn
cò.”
Ngoài
trời đêm
đen thật thanh
vắng,
tôi ra
ngoài
đứng
trên ban
công
nhìn
qua trại gia
binh bên
cạnh, tự hỏi
không
biết gia
đình
Vần đang
làm
gì
và nghĩ
đến ánh
mắt yêu
thương của Mẹ
Vân
nhìn
hai đứa
tôi khi
ăn cơm với
linh cảm
mình sẽ
không
bao giờ
có lại
được bữa cơm
đó.
Nhìn
qua lầu 2
phòng
quân số,
tất cả đều
yên
tĩnh.
Tôi biết
một số
quá
mệt, chắc cũng
đã “hồn
bướm mơ
tiên,”
tuy
nhiên
hẳn cũng
đã
phân
công
thay
phiên
nhau ngủ.
Những con
gà con
rối loạn chỉ
trong
vòng
vài
tiếng đồng hồ
nay đã
trở
thành
những con
mãnh hổ
đang nằm phục
sẵn.
Không ai
có thể
ngờ được sức
mạnh của những
con
mãnh hổ
này lợi
hại đến nhường
nào.
Tôi
quay lại
phòng
chỉ huy
trưởng,
và ngủ
thiếp đi tự
lúc
nào
không
hay. Trong
giấc mơ,
tôi thấy
mình
đang ở
nhà
quây
quần
cùng
với cha mẹ
và anh
em. Hai đứa em
gái của
tôi, bấy
giờ mới được 7
và 8
tuổi,
đòi
tôi dẫn
đi chợ. Hằng
năm, mỗi lần
được về
phép
thăm
nhà,
anh em
chúng
tôi, như
đã
thành
thông
lệ, thường
được cha mẹ
cho tiền. Hai
cô em
gái của
tôi
thì rất
thích
ăn yaourt. Ở
chợ gần
nhà
có
quán
của bà
Ba, yaourt của
bà
làm
thật là
ngon tuyệt.
Thế là
ba anh em
chúng
tôi lại
đến vòi
mẹ xin tiền
rồi mỗi đứa
một bên,
tôi dắt
hai em đi chợ.
Đi gần đến chợ
thì…
một em Thiếu
Sinh
Quân lay
tôi dậy.
Tôi mở
mắt thấy trời
hừng
sáng.
Em nói
Anh Dũng
! Có
lính
đông
lắm, đang đi
về phía
mình
Tôi
bật dậy, nhảy
ngay ra ban
công
nhìn về
hướng đại lộ
độc đạo dẫn
vào
cổng trường.
Trời đang mưa
lâm
râm,
còn mờ
mờ tối, cảnh
vật rất
yên
tĩnh.
Tôi
chẳng
nhìn
thấy gì
và nghĩ
cậu bé
lay
mình
dậy chắc
vì
hoảng sợ
nên
tưởng tượng,
trông
gà
hoá
cuốc. Sắp sửa
quay lưng trở
về chỗ nằm
thì
tôi chợt
nghe tiếng
oang oang của
Hạ Sĩ
Hoành,
các anh
em đặt biệt
hiệu vui
là
Hoành
heo. Anh
Hoành
là hạ
sĩ quan
cán bộ
hỏa đầu vụ.
Tôi ngạc
nhiên
với sự hiện
diện của Hạ Sĩ
Hoành,
chẳng biết Anh
nhập cuộc từ
bao giờ. Hạ sĩ
Hoành
bảo
chúng
tôi:
- Tụi
bay ở
đó đi!
Chắc là
lính
mình
đó ! Để
tao ra coi
thử!
Cùng
đi với hạ sĩ
Hoành
là
Nguyễn Văn
Thành
liên lớp
12 và
một Thiếu Sinh
Quân nữa
tôi
không
biết
tên. Đến
lúc
đó
tôi mới
phát
hiện có
môt
nhóm
người lố nhố ở
tít
đằng xa đang
tiến dần về
phía
chúng
tôi.
Tôi đứng
trên lầu
căng mắt theo
dõi
và dặn
anh em chuẩn
bị sẵn
sàng
cho mọi bất
trắc. Đột
nhiên,
tất cả
chúng
tôi đều
nghe tiếng hạ
sĩ
Hoành
la lớn:
- Việệt
Cộộộng!
Tiếng
hô vừa
dứt thì
lập tức tất cả
hỏa lực đặt
sẵn ở lầu 1
phòng
quân số,
phòng
chỉ huy,
các khu
vực
tháp
canh nhất tề
khai hoả yểm
trợ cho đồng
đội chạy trở
vào
trường. Bắc
quân
chắc
không
thể nào
ngờ họ lại
được
đón
tiếp một
cách
“nồng hậu” như
vậy. Suốt
khoảng thời
gian gần 15
phút,
hoả lực từ
trong trường
dập ra thật dữ
dội. Bắc
quân bị
tấn công
bất ngờ, chui
rúc
tìm chỗ
tránh
đạn, chỉ nghe
rời rạc
vài
tiếng AK bắn
trả. Có
lẽ họ nghĩ
trường Thiếu
Sinh
Quân
đã di
tản và
bỏ trống.
Những
phút
giây
khai hoả dữ
dội ở cổng
trường
đã
làm cho
tất cả lực
lượng chiến
đấu còn
lại của trường
tỉnh
táo
và sẵn
sàng ở
vị trí
ứng phó
5/5.
Bên
ngoài
trường, hẳn
là đồng
bào
đã
choàng
thức và
ngạc
nhiên,
lo âu,
nhìn về
hướng trường
Thiếu Sinh
Quân.
Một buổi
sáng họ
không
bao giờ
quên.
Trong trường,
anh em di
chuyển nhộn
nhịp hẳn
lên.
Tôi
nhìn
thấy Lâm
A Sáng
(hiện đang
định cư tại
Seatle,
Washington )
và Phạm
Ngọc
Trình
(đã
chết ở Việt
Nam) chạy
lúp
xúp
sang ban
quân số,
đứa vác
súng,
đứa vác
đạn. Đến ban
quân số,
tầng
trên
đã chật
ních
những xạ thủ,
Sáng
và
Trình
phải nằm thủ ở
bậc cầu thang.
Thoắt một
cái
khẩu trung
liên Bar
của
Sáng
và
Trình
đã sẵn
sàng
tham gia cuộc
chiến.
Súng
vẫn còn
nổ giòn
giã
thì
Hoàng
Văn Mạ đang
thủ khẩu đại
liên
trên lầu
gào
lớn:
-
Ê, tụi
bay! Bắn cho
chính
xác
và vừa
thôi,
coi chừng hết
đạn nghe!
Tiếng
gào của
Mạ, như thể
một mệnh lệnh,
khiến cho tất
cả các
khẩu
súng
đều ngừng khạc
lửa.
Khói
súng
mịt mù.
Mùi
thuốc
súng
nồng nặc. Tai
tôi
lùng
bùng
vì
tiếng đạn
tưởng
rách
màng
nhĩ. Xa xa
ngoài
cổng trường,
các
bóng
Bắc quân
biến đi
đâu mất.
Bên
trong
sân
trường
và
các ổ
chiến đấu
thì hết
sức tĩnh mịch,
cái
yên tĩnh
rùng
rợn của một
hứa hẹn đổ
máu
thật dễ sợ
mà lần
đầu tiên
trong đời
tôi mới
cảm thấy.
Tôi
đoán
Bắc quân
thế nào
cũng sẽ tấn
công để
chiếm trường.
Tôi cũng
biết quyết
tâm của
những tay
súng
Thiếu Sinh
Quân
liều lĩnh.
Chúng
tôi
lúc
này như
đã ở
vào thế
cận chân
tường, chiến
đấu trong
tâm
trạng “điếc
không sợ
súng”
và
ý nghĩ
“không
còn
gì để
mất!”
Bên
ngoài,
trời đã
bắt đầu rạng
sáng.
Trấn tĩnh đội
hình,
Bắc quân
bắt đầu tấn
công
chiếm trường.
Họ cho một
toán
quân
tiến qua
khách
sạn đối diện
trường ở
bên kia
đường
và
chiếm giữ
các vị
trí
trên
các
tầng lầu nhằm
giảm lợi thế
của
chúng
tôi khai
hoả từ
trên
cao. Một mặt,
họ đưa hỏa lực
mạnh như
súng
cối,
súng
phóng
lựu, B-40 để
công
phá
chúng
tôi từ
mặt đất,
vì với
vị trí
phòng
thủ kiên
cố, hoả lực
nhẹ của họ
không
có
tác
dụng uy hiếp
được
chúng
tôi.
Cuộc
chạm
súng
đợt hai khởi
diễn với quả
đạn
pháo
của Bắc
quân rớt
vào
giữa sân
banh sau lưng
chúng
tôi. Lần
đầu tiên
bị pháo
giữa sân
trường, lẽ ra
phải nằm xuống
tránh
miểng đạn, một
số các
em hoảng sợ
chạy
tán
loạn
tìm chỗ
che lưng, cũng
may là
không ai
bị
trúng
thương. Tiếp
theo là
một
phát
B-40 thổi tung
cổng trường,
một em Thiếu
Sinh
Quân,
có lẽ
thuộc
liên lớp
9 hoặc 10,
chạy ra
kéo cửa
đóng
lại. Vừa
đóng
xong, em chạy
qua nấp
bên bức
tường
đá
phía
phòng
chỉ huy. Tất
cả sự việc xảy
ra trong
vòng
không
đầy một
phút,
em vừa kịp
lách
mình
vào
thành
đá
là một
quả B-40 thứ
hai nốI tiếp
một lần nữa mở
toang cổng
trường. Giỡn
mặt với tử
thần như vậy
cũng tạm đủ.
Từ giờ
phút
đó
chẳng ai
“thèm”
chạy ra
đóng
cửa nữa.
Nhìn
rõ mặt,
đánh
nhau mới
“sướng!”
Mặc dầu
có
những lỗi lầm
ngu ngơ của
lần đầu
tiên
trong đời đối
mặt với kẻ
thù như
vừa kể, cuộc
chạm
súng
đợt hai
đã diễn
ra thật dữ
dội. Đối
phó với
địch
quân
trên
tầng lầu
khách
sạn,
Phú Văn
Đại cầm khẩu
M-79 bắn trực
xạ vào
các
ô cửa
phòng
khách
sạn. Chẳng
hiểu hắn luyện
tập khi
nào
mà xử
dụng vũ
khí rất
chuyên
nghiệp. Bắc
quân bị
khốn đốn rất
nhiều với anh
chàng
này.
Đối phó
với
toán
quân
trên
bình
địa là
các
khẩu đại
liên
phối hợp với
các
khẩu trung
liên,
tiểu
liên
thay
phiên
bọc lót
cho nhau.
Những
tràng
đạn
giòn
tan đủ
âm độ
được tô
điểm bởi những
phát nổ
cầm chừng của
các
khẩu garant
nhịp
nhàng
ăn ý,
lâu
lâu lại
có
tiếng dậm đậm
đà của
cây
phóng
lựu M2. Tất cả
các
âm thanh
quyện lại như
một
giàn
nhạc giao
hưởng
điêu
luyện
và biến
thành
một lướI đạn
chằng chịt phủ
xuống đầu đốI
phương.
Với
quân số
hơn một tiểu
đoàn
chính
quy Bắc Việt,
đối phương dồn
hoả lực cố
gắng tạo kẽ hở
để vượt
lên tiến
đến gần
chúng
tôi.
Nhưng với vị
trí
thuận lợi
và
những tay
súng
gan lì
không hề
nao
núng
trước
làn đạn
kẻ thù,
các em
nhỏ Thiếu Sinh
Quân
đã buộc
Bắc quân
phải bó
tay, dậm
chân tại
chỗ suốt hơn
một giờ chiến
đấu.
Đến
khoảng 7 giờ
sáng,
từ bên
phòng
chỉ huy
trưởng,
tôi chạy
băng qua
phòng
quân số
để theo
dõi
việc tiếp đạn
cho các
khẩu đại
liên đặt
tại đó.
Qua hai
cánh
cổng mở toang,
tôi thấy
một bộ đội
cộng sản đang
đặt khẩu
phóng
lựu trên
vai nhắm thẳng
ngay
tôi.
Tôi bật
ngay khẩu
carbine
trên tay
hướng về hắn
bóp
cò.
Cùng
lúc,
viên đạn
từ nòng
súng
của hắn cũng
xẹt ánh
sáng
xanh bay về
phía
tôi.
Chệch qua mặt
tôi
khoảng hai
gang tay,
viên đạn
trúng
đài
biểu tượng
Nhân
Trí
Dũng
phá tan
một mảnh
đá lớn.
Ngay
lúc
đó,
tôi cảm
thấy hoa mắt,
chân
và vai
tê rần.
Khuỵu xuống
vớI chân
phải bị
trúng
thương,
tôi liếc
nhìn
xuống chiếc
áo sơ
mi đang mặc
loang lổ đầy
máu
tươi. Một
thoáng
tích
tắc ngạc
nhiên
không
hiểu tại sao
áo
mình
đầy những
máu
mà
không
cảm thấy một
chút
đau đớn
gì
thì
tôi
ngã ra
ngất xỉu.
Trong
lúc
đó
Lâm A
Sáng
cũng bị một
phát
đạn vào
chân.
Lê Văn
Tánh
(còn ở
tại Việt Nam)
chạy lại băng
bó cho
Sáng,
một lúc
sau cũng
lãnh
một viên
đạn vào
đùi.
Thế
là Phạm
Ngọc
Trình
cõng
Lâm A
Sáng,
Nguyễn Văn
Minh
cõng
tôi chạy
qua khu Văn
hoá.
Nghe kể lại,
hai Thiếu Sinh
Quân
đã
dùng
tấm drape
giường
làm
võng
khiêng
tôi đang
mê man
ra đến bệnh
viện Vũng
Tàu
cách
trường
vài
cây số.
Các
anh em Thiếu
Sinh
Quân ở
lại vẫn tiếp
tục chiến đấu
mãi cho
đến gần 10 giờ
sáng.
Khi ấy đạn
dược đã
gần cạn,
các bạn
mới quyết định
gọi loa điều
đình
ngừng bắn
và treo
cờ trắng đầu
hàng.
Một sự đầu
hàng
trong danh dự
vì
các em
vẫn đường
hoàng
làm lễ
hạ Quốc kỳ
và thay
vào
đó bằng
tấm drape
trắng dong
lên cho
phép
Bắc quân
đặt chân
vào
ngưỡng cửa
ngôi
trường
yêu dấu.
Bắc quân
hẳn phải
bàng
hoàng
khi thấy những
đối thủ
kiêu
hùng
của họ chỉ
là
các em
Thiếu Sinh
Quân
tuổi trung
bình
15, 16
mà
thôi. Họ
uất ức, nhưng
chắc hẳn cũng
phải
thán
phục
các
tác giả
của 6
xác bộ
đội đang nằm
phơi nắng
ngoài
cổng trường.
Theo lời
thuật lại của
Lâm A
Sáng,
thì
trong hơn 100
Thiếu Sinh
Quân
tham gia trận
đánh,
đa số
đã leo
rào sau
trường trốn
thoát
trước khi Bắc
quân
xông
vào
cổng trường,
chỉ còn
vài
chục em nhỏ ở
lại với
các anh
lớn bị thương
không
thể đào
thoát.
Tất cả bị bắt
giữ đem nhốt
qua trại gia
binh Cô
Giang
bên cạnh
trường. TrạI
Gia Binh
Cô Giang
vốn là
ngõ
ngách
quen thuộc của
các
Thiếu Sinh
Quân.
Kết quả
là tất
cả đã
chui
rào
biến mất,
khiêng
luôn cả
Lê Văn
Tánh bị
thương nặng ở
đùi
theo. Nhốt
Thiếu Sinh
Quân ở
Trại Cô
Giang chẳng
khác
nào thả
hổ về rừng.
Trở lại
phần
tôi,
tỉnh dậy trong
bệnh viện Vũng
Tàu
thì
trời đã
tối.
Chân
và vai
đau đớn
vì
miểng đạn, mặt
thì
sưng vù
không
há
miệng được do
vết thương ở
bên
má. Cho
đến bây
giờ, hơn 27
năm sau, ngồi
viết đến đoạn
này
tôi vẫn
không
ngăn được niềm
xúc
động và
tự hào
cho
tình
yêu
thương lẫn
nhau hiếm
có của
những con
người Thiếu
Sinh
Quân.
Bệnh
viện đầy ngập
những người bị
thương.
Nhân
viên y
tế không
đủ để chăm
sóc.
Tôi bị
bỏ nằm
trên nền
đất lạnh cả
đêm
chẳng
có y
tá
nào
ngó
ngàng
tới. Chỉ
có một
em Thiếu Sinh
Quân lớp
9 mà
mãi đến
27 năm sau,
tình cờ
do một
duyên
may tôi
mới được biết
tên,
là
Nguyễn Kim
Hùng
(hiện cư ngụ
tại Oklahoma),
đã ở
lại chăm
sóc cho
tôi. Em
thức suốt
đêm cạy
miệng đổ sữa
cho tôi
cầm sức
và
quanh quẩn
bên
tôi để
giúp
đỡ. Đến
sáng
hôm sau
thì một
đám bạn
cùng
lớp gồm Thịnh
nhóc,
Thành
râu
(hiện định cư
tại
Minnesota),
Thiện huế
và
vài anh
em nữa
tôi
không
nhớ tên
đến bệnh viện
đón
tôi đi.
Các bạn
rất vất vả
thay
phiên
nhau
cõng
tôi đi
mãi đến
khi trời chập
choạng tối
thì
chúng
tôi mới
về đến
Bà Rịa.
Nghỉ ở
Bà Rịa
một đêm,
sáng
hôm sau,
chúng
tôi lại
dìu dắt
nhau
tìm
phương tiện để
trở về
thành
phố.
Lịch sử
đã sang
trang. Hơn một
phần tư thế kỷ
đã
trôi
qua. Trường
Thiếu Sinh
Quân
ngày
nay đã
trở
thành
trụ sở của một
công ty
dầu khí
ở Vũng
Tàu.
Tuy
nhiên,
trong
lòng
những người
dân xứ
biển,
hình
ảnh hào
hùng
của các
Thiếu Sinh
Quân
trong trận
đánh
giữ trường
lịch sử
mãi
mãi sẽ
không
bao giờ phai
nhạt. Tổ quốc
sẽ ghi danh
trong
quân sử
những người
con Thiếu Sinh
Quân vũ
dũng
kiêu
hùng
đã viết
nên
thiên
anh
hùng ca
bất khuất cho
quân
đội.
HẾT
CTSQ
Nguyễn Anh
Dũng và
CTSQ Lâm
A Sáng
Colorado,
ngày 24
tháng
10 năm 2002
(Edited
by Bắc Phong
Sài
Gòn/
K23 Thủ đức)
|