Làm
thế nào đề tu luyện cho có Anh Nhi =
Xá Lợi Phật => Kim Thân để thoát
Luân Hồi sanh tử khỏi trái đất (Quả
Cầu 68) này về thẳng
Bạch Ngọc Kinh ( Niết Bàn) ?
Sự sống của con người
phải hội tụ một số điều kiện quan trọng, trong đó
sức khỏe và tinh thần là điều không thể thiếu
được. Chính đây là phương tiện để cho con người
sinh hoạt trên thế gian này với đầy đủ ư nghĩa và
chức năng “vi nhân” của họ.
Sức khỏe là nguồn
năng lực để hoạt động hằng ngày, vận chuyển cơ thể
trong sự giao tiếp với xă hội vạn vật. Nếu không
có sức khỏe, tất nhiên cơ thể không có đủ khả năng
vận hành, trở nên yếu ớt mất hết tác dụng. Sức
khỏe c̣n là năng lực chính yếu để giúp cho các cơ
quan (như bộ máy) trong châu thân - phối hợp cùng
nhau tạo tác sự sống. Con người có đầy đủ sức khỏe
th́ các bộ máy hoạt động mạnh, không tŕ trệ, phát
huy hết mọi khả năng.
Ngược lại, nếu con
người thiếu sức khỏe sẽ trở nên bải hoải, mệt
nhọc, mất đi sinh khí sống động. Chính v́ thế, con
người phải làm thế nào để bồi dưỡng sức lực đầy
đủ, trong sinh hoạt đừng làm cho tổn sức, mất lực
một cách thái quá, khó có thể phục hồi. Đây là bổn
phận lo cho chính bản thân ḿnh nhằm tạo tác nguồn
năng lực, chủ yếu để có một cơ thể sung măn tràn
đầy sức sống.
V́ vậy, con người
phải được bồi dưỡng và bảo vệ, phải theo một
phương thức đúng đắn, mới đem đến kết quả hữu
hiệu, không hao hụt, phung phí, lại được cung cấp
thêm, thân thể sẽ trở nên khang kiện.
Có thể coi đây là
công cuộc “đầu tư kinh tế” cho chính bản thân
ḿnh, làm cho nó phát triển càng dồi dào,
sung măn, tràn đầy
nhựa sống hơn.
Muốn được như thế,
việc cung cấp và bảo vệ năng lượng đó cần phải đi
song song với nhau mới thành công. Trong sinh hoạt
hàng ngày, do tiêu hao năng lượng, bệnh tật gây ra
làm cho ta kiệt sức, nên ta phải thiết thực bảo vệ
và phục hồi cơ năng cho cơ thể được khỏe mạnh để
chống chọi với bệnh tật, hoạt động điều ḥa, chịu
đựng dẻo dai và bền bỉ, hiệu năng lao động cao.
Khi con người có đầy
đủ sức khỏe, thân thể cường tráng, các bộ phận
hoạt động đều, máu huyết lưu thông, cung cấp dưỡng
khí đầy đủ, tâm thần cảm thấy thư thái, tươi mát.
Ngũ quan phát huy đúng mức, ứng dụng kịp
lúc, hợp thời, trong ngoài không ngăn trở, ăn khớp
với nhau. Đó là điều kiện tiềm tàng của cuộc sống
hạnh phúc.
Một thân thể khỏe
mạnh, cường tráng cũng chưa đủ, phải có tinh thần
thông suốt, vững mạnh để làm chủ thân xác, đây là
vấn đề con người cần quan tâm hơn hết để dinh
dưỡng trí tuệ cho minh mẫn, dồi dào, ứng dụng
thuận hợp với mọi hoàn cảnh.
Thế nên con người
phải hội đủ hai điều kiện chủ yếu: sức khỏe và
tinh thần cùng đi song song với nhau, không thể
thiếu được. Tinh thần mà bạc nhược, u tối th́ thật
là điều bất hạnh!
Con người phải có trí
tuệ, tinh thần sáng tỏ, hành động tuyệt minh là
điều căn bản nhất để thấy chân, biết thật trong
sinh hoạt hằng ngày, giao tiếp với xă hội vạn vật.
Đời sống an vui hạnh phúc, lúc nào cũng yêu đời
nhờ có một tinh thần minh mẫn trong một thân thể
tráng kiện.
Đây là thành quả của
việc đầu tư vĩ đại về sức khỏe và tinh thần ngay
trong chính bản thân ta.
Ngày nay, môi trường
bị ô nhiễm do con người sử dụng hóa chất bừa băi,
chất độc lan tràn từ thực vật đến bầu không khí,
khiến cơ thể con người bị ảnh hưởng trầm trọng,
sinh ra nhiều loại bệnh tật trong khi ta c̣n thiếu
phương tiện kỹ
thuật và thuốc men
điều trị.
Để đi vào kỷ nguyên
21, cần phải có con người trí tuệ, phù hợp với nền
văn minh vật chất lẫn tinh thần. Xuất phát từ quan
điểm v́ lợi ích cho nhân loại, đem an vui cho mọi
người, chúng tôi xin biên soạn cuốn “Bửu
pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi”.
Đây là gia bảo vốn được lưu giữ qua nhiều đời. Nay
nhận thấy phương pháp này không thể dành riêng cho
một nhóm người, một tín ngưỡng, hay một dân tộc
nào, mà phải là của chung cho tất cả, cũng như bầu
không khí mà mọi sinh nhân được quyền thở vậy, nó
là sự sống. C̣n liên lạc là c̣n sự sống, mất liên
lạc là hết hoạt động, ngưng nghỉ hoàn toàn.
V́ thế chúng tôi mạnh
dạn cho phổ biến phương pháp này làm tài liệu tham
khảo cho những ai muốn tiếp nhận, để dinh dưỡng
tinh thần lẫn thể xác, khởi động mọi tiềm năng sẵn
có ở trong châu thân, tạo dựng cho cuộc đời ḿnh
một cuộc sống an vui và khỏe mạnh, vơi bớt phần
nào đau khổ và bất hạnh.
Con đường sáng dẫn
đến hạnh phúc là đỉnh cao mơ ước của nhân loại sẽ
không c̣n xa vời nữa. Tất cả mọi người cùng có
hoài băo xây đắp hạnh phúc cho chính bản thân ḿnh
và đem lại lợi ích thiết thực cho mọi người, góp
phần xây dựng một xă hội văn minh, tất cả cùng
hưởng những ǵ tốt đẹp mà ḿnh đă tạo dựng.
Chắc rằng nội dung
sách chưa thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu t́m hiểu của
bạn đọc và khó tránh khỏi những sai sót, chúng tôi
rất mong đọc giả lượng thứ, chân t́nh góp ư, trao
đổi để cuốn sách được hoàn chỉnh hơn trong các lần
tái bản.
Tác giả
KHÁI NIỆM NGUYÊN
LƯ “ĐỘNG – TĨNH”
VỚI “PHƯƠNG PHÁP BỒI DƯỠNG SỨC KHỎE VÀ TINH THẦN”
THEO QUAN ĐIỂM ĐÔNG PHƯƠNG
A. Mở đầu
B. Cơ động tĩnh
của "đại vũ trụ"
C. Cơ động tĩnh
của "tiểu vũ trụ"
A. Mở đầu
Theo chúng tôi, Bửu
pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi
xuất hiện tại đất nước Việt Nam chúng ta phù hợp
với nguyên lư âm-dương theo quan điểm
Đông phương. Nó mang một tính chất đặc biệt, lư
giải con người, tạo tác sự sống và sự sáng. Địa
h́nh truyền thuyết đất nước Việt Nam có một ư
nghĩa sâu sắc đặc biệt. Chính nơi đây đă sản sinh
ra những vĩ nhân được chiêm ngưỡng từ xưa đến nay.
Không phải v́ chúng ta có “óc cục bộ”, tự hào cái
ǵ của dân tộc ḿnh cũng là cao cả, rồi tự tôn
vinh mà đó là sự thật. “Địa linh sinh nhân kiệt”.
Có giả thiết cho rằng trung tâm trí tuệ chuyển về
Đông phương, vùng châu Á Thái B́nh Dương, trong đó
nước Việt Nam đóng một vai tṛ tối quan trọng với
địa thế và nguồn tài nguyên thiên nhiên ưu đăi,
vốn là một dân tộc thông minh-anh hùng-dũng cảm.
Đất nước Việt Nam là
trung tâm trí tuệ, lương tâm thời đại, đó là điều
thế giới đă từng ca ngợi.
Các tiền nhân mượn
“sự” để tŕnh bày “lư”, dụng tâm diễn tả qua những
truyền thuyết. Chúng ta lần lượt đi sâu vào để t́m
hiểu, trở về chỗ thuần nhất không thiên kiến để
thấy sự thật lộ bày.
Theo truyền thuyết:
dân tộc Việt Nam là giống Tiên Rồng (Thượng giới)
từ trên đi xuống. Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ
tượng trưng “dương giao ḥa cùng âm”.
Họ sinh ra một bọc (đồng bào) một trăm trứng nở ra
một trăm người con. 50 người theo Bà lên núi
(trong dương có âm) 50 người
theo Ông xuống biển (trong âm có dương).
“Lưỡng nghi” tương đối tạo ra giống “Lạc Hồng”,
theo đàn chim Việt xuống phía Nam lập nghiệp. Từ
trung tâm nguyên bản xa rời nguồn cội, giống chim
linh khinh – thanh biết bay lạc vào hồng trần để
tiến hóa. Việt Nam biểu tượng chân tâm ưu việt,
tâm đăng sáng chói,
Việt Nam là lương
tâm của thời đại.
Phần tinh thần, lư
thuyết cũng trùng hợp với địa h́nh vật thể. Ta hăy
nh́n vào bản đồ Việt Nam có h́nh chữ S và những
đặc điểm đáng lưu ư. Ta sẽ thấy rơ ràng bằng h́nh,
nếu vẽ một ṿng tṛn bao quanh đất nước Việt Nam,
gồm 2 phần: đất liền và biển cả.
Phần đất liền
(dương), phần biển cả (âm). Âm-dương
giao ḥa biểu tượng sự bền vững.
Một điều đáng quan
tâm nữa là đất nước Việt Nam có ḍng sông Cửu
Long. Đây là ḍng sông đặc biệt. Nó bắt nguồn từ
Tây Tạng, trên đỉnh cao tột Hy Mă Lạp Sơn chảy ra
biển Đông. Đến chỗ thật thấp, sâu nhất, mang đủ
tinh chất âm-dương của đất trời
(thượng-hạ, cao-thấp), đầy đủ linh khí hun đúc và
nuôi dưỡng con người Việt Nam.
Chúng ta đă từng
biết, mỗi ḍng sông mang một ư nghĩa đặc biệt cho
sự sống con người và có các nền văn minh của các
ḍng sông đó, như: sông Hằng, sông Volga, sông
Dương Tử, sông Mississipi. Và trong nước Việt Nam
như sông Hồng, sông Hương, sông Sài G̣n sau cùng
đến ḍng Cửu Long sẽ mang đến một nền văn minh cực
thịnh cho dân tộc Việt Nam trong tương lai.
Tiếng “Việt Nam” là
tiếng nói của con tim. Xuất phát từ Tâm, chân lư
rạng ngời. Ngược ḍng lịch sử, Việt Nam trước kia:
Trịnh Nguyễn phân tranh, sông Gianh ngăn cách.
Phải có Nguyễn Huệ mới thống nhất vẹn toàn; đến
năm1954, hiệp định Genève, Việt Nam lần nữa bị
ḍng Bến Hải phân đôi. Với đường lối Minh (Nhật
Nguyệt), “Lưỡng nghi qui hiệp, qui thống” Bắc,
Trung, Nam hợp nhất một nhà. Điều này giống
tinh-khí-thần như bộ ba tài-trí-đức, không thể
tách rời ra được. Thiếu một trong ba yếu tố sẽ mất
hết tác dụng.
Tuy một mà ba, tuy
ba mà một.
Ngọn đèn tinh thần
bừng sáng. Lửa thiêng phát khởi không c̣n đen tối.
Thể hiện nước Việt Nam là một,
dân tộc Việt Nam là
một, chân lư rạng ngời.
V́ vậy đất nước Việt
Nam này hội đủ điều kiện, “sự lư”, vầng “Đại Quang
Minh” sẽ soi sáng cho nhân loại vào những kỷ
nguyên sắp tới. Với nền văn minh cực thịnh, phù
hợp theo thuyết lư “Âm dương, động tĩnh xoay
chuyển” của triết học Đông phương.
B. Cơ Động - Tĩnh
của “đại vũ trụ”
Theo quan điểm triết
học Đông phương, tất cả muôn loài vạn vật, đều
chịu ảnh hưởng của luật âm dương chi
phối, sinh thành trưởng dưỡng, rồi đến hủy diệt.
Đây là: “Thành-Trụ-Hoại-Không”. Diệt diệt, sinh
sinh cứ nối tiếp măi.
Nh́n thế gian, quan
sát cơ Động-Tĩnh của trời đất ta cũng thấy như
vậy: ngày qua đêm lại, hết tối rồi lại sáng, luân
phiên chuyển xoay. Vạn vật được sinh sinh, hóa hóa
vô cùng, muôn vẻ, ngh́n sắc.
Chính đó là vấn đề
mà ta cần phải t́m hiểu để thấu rơ từng mấu chốt
kín đáo. Rồi ta phải làm cho chỗ tối mật, bí yếu
hiển hiện ra, nhờ vào cái dễ thấy, dễ biết để đo
lường cái không thể thấy, không thể biết; tức là
cái vô cùng vô tận, bất khả tri, bất khả lượng,
không thể dùng ngôn từ diễn tả được.
Khi ta hiểu rơ đầu
mối đơn giản, th́ ta sẽ lần lượt t́m phương pháp
mở khai dần hết bí mật phức tạp; tất cả sẽ lộ bày
“toàn chu nguyên thể”.
“Động” và “Tĩnh”
của trời đất như thế nào?
Đây là điều ta phải
quan tâm t́m hiểu chỗ mật nhiệm. Ngoài ra ta cũng
cần biết “Động mà không động” “Tĩnh mà không
tĩnh”, mới thật là “chân Động-Tĩnh” của cơ trời
máy tạo vận hành Càn Khôn vũ trụ.
Để lư giải cơ
“Động-Tĩnh” một cách thiết thực, ta chú ư “trái
đất đang vận hành”.
Nó đang xoay quanh
mặt trời mà ta thấy dường như không xoay, đứng yên
một chỗ rất vững vàng. Nếu ta “thấy” nó xoay, có
động th́ rơ ràng với gia tốc đó sẽ bắn tung chúng
ta ra ngoài không gian. C̣n bằng ngược lại, trái
đất này yên tĩnh một chỗ, nó sẽ rơi vào vũ trụ bao
la.
Như vậy, ta nhận thấy
trái đất có động có xoay mà dường như không xoay
không động. “Động mà Tĩnh, Tĩnh mà Động”, phù hợp
với tự nhiên, không thể sai biệt một chút nào -
chậm hay mau cũng không được, cần phải “đúng độ và
đồng bộ”.
Khi luân chuyển như
thế không trắc trở chẳng chướng ngại, thuận hợp
với “chân cơ tạo hóa” “trong Động có Tĩnh, trong
Tĩnh có Động”.
Thêm một thí dụ dễ
hiểu nữa, nơi thân xác của con người, ai ai cũng
rơ biết cả - quả tim của ta đấy, bộ máy tuần hoàn
vận hành liên tục.
Nếu ta nghe nó
“động” b́nh bịch trong lồng ngực một cách rơ ràng,
làm ảnh hưởng đến châu thân. Nếu trạng thái không
b́nh thường, ta cảm thấy mệt mỏi, khó chịu vô
cùng, tức là ta đă mắc bệnh. Khi tim đập b́nh
thường, ta cảm thấy nó êm ru, không động đậy chi
cả. Nhưng ta vẫn biết rằng tim ḿnh có đập, hoạt
động của cơ quan tuần hoàn, bởi nó không động thật
sự mà cũng không tĩnh. Nếu tĩnh, ngưng nghỉ hoàn
toàn, yên tĩnh ở một vị trí, máu huyết không lưu
thông, tất ta phải chết.
Như vậy, tim có động
cũng như không động. Không động mà động, đúng với
cơ tuần hoàn như “tiểu vũ trụ” (thân xác của ta),
đúng độ của nó, vận hành không có trắc trở chi,
đem máu đến các bộ phận châu thân, tạo sự sống cho
cơ thể.
Theo dơi cơ Động-Tĩnh
của “đại vũ trụ” (thế gian bên ngoài) thấy không
sai khác bao nhiêu, phù hợp với quy luật tự nhiên
mà ta đă biết.
C. Cơ
Động-Tĩnh nơi “tiểu vũ trụ”
dẫn đến Bửu
pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi.
Từ cơ Động-Tĩnh của
đất trời (đại vũ trụ), sinh hóa muôn loài vạn vật,
đến cơ Động-Tĩnh của âm-dương (cha-mẹ),
nguồn cội sinh ra con người cũng là một “tạo hóa
cơ”.
Ai cũng vậy, được
sinh ra đời có một cơ thể và một cái trí để làm lẽ
sống, tức là một bộ máy gồm nhị thể: xác và hồn.
Tuy hai mà một, tuy một mà hai, nương nhau sinh
hoạt và tiến hóa. Một bộ máy tinh vi và hoàn hảo,
cũng là một tuyệt phẩm tạo hóa, đầy đủ tất cả. Một
“tiểu vũ trụ” thu hẹp, một kho báu linh. Do vậy,
chúng ta cần phải bảo trọng trên hết.
Từ lúc sinh ra cho
đến lúc lớn lên, già đi rồi chết, một đời người
diễn ra theo qui luật tự nhiên trên cơi trần này.
Con người muốn trường tồn để tận hưởng hạnh phúc ở
đời, họ dùng đủ phương cách để trưởng dưỡng thân
xác. Trong đó tu dưỡng tinh thần thanh sạch, thoải
mái là điều hết sức hệ trọng. việc chính yếu là
phải hiểu nơi ḿnh, một “tiểu vũ trụ” thu hẹp,
biết ta là sẽ biết tất cả,
làm chủ ta sẽ làm
chủ tất cả, đó là lẽ sống.
Đó cũng là vấn đề mà
ta phải thông đạt trước tiên. Chúng ta hăy đi sâu
vào để t́m hiểu và lợi dụng nó vào mục đích “đầu
tư trí tuệ”, “phục hưng kinh tế bản thân”, đến chỗ
dồi dào sung măn.
Ta bắt đầu tham cứu
bộ máy tinh vi hoàn hảo, cái “tiểu vũ trụ” thu
hẹp. Ta phải làm thế nào để biến chúng thành “quư
bửu” thật sự mới hữu dụng. Việc làm này rất thiết
thực nhưng lắm công phu, nhiều vất vả. Ta có bổn
phận thấu triệt và hoàn thiện nó. Thật khó t́m,
khó thấy. Nhưng nếu ta biết được mấu chốt và tháo
gỡ, tất cả sẽ lộ bày hiện ra trước mắt.
Ta đi ngay vào đầu
năo, bộ phận trung tâm điều khiển mọi hoạt động để
tri thấu cội căn nguồn gốc. Hăy trở về với nó để
rơ “cái ta”, diện mục chính ḿnh, dễ thấy, dễ
biết. Ta h́nh dung có một cái gạch thẳng đứng ở
ngay chính giữa mặt, có một điểm được gọi là “nhân
trung” (vị trí giữa mũi và môi).
“Thiên - địa -
nhân” tượng trưng cho mối hệ trong đó con người ở
giữa đất-trời, cũng là cái gạch nối liền giữa
“hữu-vô”, mang cả hai tính chất. Trong một hữu
thể, cái thứ ba thành h́nh là “nhân” đó.
Hăy t́m hiểu phần ở
dưới “nhân trung”.
Gồm có cái miệng,
trong chứa răng và lưỡi. Miệng ăn vật chất để nuôi
thân xác.
Chính đây là chỗ
tiếp nhận nhiên liệu,
để giúp cho cơ thể
có năng lực hoạt động.
V́ vậy có một số
người sống theo vật chất, chú trọng tới thân xác.
Họ cố lo cung phụng cho nó được béo ph́ bằng đầy
đủ cao lương mỹ vị, với những món ăn cầu kỳ. V́
nhu cầu đ̣i hỏi như thế, họ tranh giành từng miếng
ăn, thức uống, đôi khi dùng thủ đoạn đê hèn để
tranh sống.
Đó là những người
theo thuyết “lợi dưỡng”, ăn quá no, uống quá mức,
thường gây ra nhiều tai hại cho cơ thể. Bởi họ chú
trọng sống để ăn, họ tưởng rằng lo bồi dưỡng cho
thân xác được trường tồn khỏe mạnh là cứu cánh.
Nhưng “hữu h́nh, hữu hoại” theo thời gian.
Một điều đáng chú
ư:đồ ăn (vật chất của đất) để nuôi xác thân có hạn
lượng.
Nếu không biết sử
dụng cũng có hại.
Đạm động vật thường
gây bế tắc mạch máu và tăng huyết áp, nhất là đối
với người lớn tuổi,
và gây chứng khó
tiêu.
Lại có người quan tâm
đến đời sống tinh thần chân thật. Họ dùng thực vật
thanh đạm để nuôi thân, tránh được những tai biến.
Họ dùng thức ăn gồm
thảo mộc, ngũ cốc, chứa toàn đạm thực vật. Họ
không dùng thịt, cá và đạm động vật. Đấy là “người
ăn chay”. Đồ ăn gồm đạm thực vật dễ tiêu, nhẹ
nhàng, rất tốt với người lớn tuổi, ít kích thích
như thức ăn đạm động vật.
Hiện nay trên thế
giới, y học khuyến khích con người nên dùng đạm
thực vật.
Người theo thuyết
“lợi dưỡng” đôi khi khích bác cho rằng, ăn chay,
dùng đạm thực vật sẽ suy yếu, bạc nhược, không đầy
đủ chất bổ, mất hết sinh lực,đi đến chỗ hủy hoại
thân xác. Thật ra, thử hỏi, có ai mạnh bằng trâu,
khỏe như voi mà chúng chỉ ăn cỏ cây nhưng lại có
sức mạnh phi thường? Thế nên ta cần nhận thức lại
một cách đúng đắn hơn theo tinh thần khoa học.
Có một số người sợ
thân xác rơi vào đ̣i hỏi ái ân dục lạc, bởi họ
chẳng thắng được “con thú” trong ḷng. Nên họ phải
nhịn ăn, nhịn khát, tu theo phép khổ hạnh để cơ
thể suy nhược không c̣n sinh lực, tự hủy hoại thân
xác cho hao ṃn. Việc làm này không hợp tự nhiên,
rất tai hại và là một sai lầm lớn lao.
Thân xác của ta phải
trở nên hữu dụng và nếu ta làm chủ được nó th́ có
lợi ích vô cùng. Bằng ngược lại, nó “sai khiến” ta
làm điều bất chính, không hợp đạo lư th́ rất tai
hại.
Quan sát tiếp, ta
thấy tận cùng thân ta có một “lỗ tiểu” và một “lỗ
đại” để thải cặn bă ra ngoài, lỗ tiểu cũng nằm
trong bộ phận sinh dục.
Con người, nam hay nữ
đều phải lớn lên, đến tuổi trưởng thành. Do sự
kích động đốc thúc từ bên trong (kích thích tố
nam, kích thích tố nữ) càng ngày càng mănh liệt,
“dâm niệm” phát khởi, nhu cầu sinh lư đ̣i hỏi.
Nhưng lại có một số người ham muốn, khao khát thái
quá, thế nên bao nhiêu “nhiên liệu” họ đem phung
phí, chẳng khác thải của báo ra ngoài.
Đời sống tinh thần ra
sao đây khi thần mất tinh; thần chẳng c̣n, lửa
tắt, vô minh ngập tràn?
Đây là hành động mà
ngay cả vua chúa đến thứ dân, kẻ văn minh, người
bán khai cũng dễ mắc phải. Họ coi đây là sự sung
sướng tột cùng, cảnh khoái lạc ân ái là hạnh phúc
thật sự, nên họ tranh giành, chiếm đoạt, cưỡng bức
để thực hiện dâm niệm. Hành động tham dục này cứ
tiếp diễn măi, nên họ phải chịu đau khổ triền
miên. Việc làm của họ khiến tinh thần sa
sút, sức khỏe hao ṃn, trí nhớ lu mờ. “Đèn hết dầu
lấy đâu sáng tỏ”, bởi tinh lậu, thần hao, đời sống
tinh thần đen tối, mất hết sinh khí, sức sống
trong người trở nên uể oải, mệt nhọc. Họ tưởng
rằng tận hưởng hạnh phúc, nhưng thực sự là đau khổ
đấy, bởi đây là những người sống theo tham dục,
hướng về đất, mất hết linh quang, phải chịu trầm
luân trong khổ ải.
Ta t́m hiểu tiếp, sẽ
thấy:
-
Phía trên nhân trung (thuộc thiên) là
một cái mũi với hai lỗ thở để không khí ra vào.
-
Hai mắt thấy màu sắc.
-
Hai tai nghe âm thanh.
Không khí, màu sắc,
âm thanh đều vô h́nh thuộc về thiên.
Không khí để nuôi dưỡng tinh thần, châu thân của
ta, thật quan trọng vô cùng. Nó không bao giờ hết.
Nguồn cung cấp vô tận cho con người chẳng hao công
phí sức, khỏi mất tiền họ vẫn có không khí để thở.
Nó c̣n liên lạc là c̣n sống. Nó mất liên lạc là
chết.
Con người ta có thể
nhịn ăn một thời gian không sao cả. Nhưng c̣n
không khí mà thiếu th́ nguy tính mạng ngay, dù
trong thời gian ngắn. Không khí cần cho đời sống
tinh thần. Ta không thể khinh thường nó.
Người đời ít quan
tâm để ư đến. Nhưng khi hiểu được, họ hết sức bảo
trọng, coi đó là sự sống của ḿnh. Chính nhờ có nó
để bồi dưỡng tinh thần, tái sinh phần sáng trong
ta. “Cơm trời cho đời sống chân thật”.
Con người đứng giữa
trời đất: thiên-địa-nhân.
Nếu là người thông
đạt, phải hiểu rơ lư của trời đất, t́nh của vạn
vật. Nhất là phải biết bổn phận hiện hữu trong
kiếp “vi nhân” này.
Con người phải “nương
đất-hướng thượng” cho đời sống tinh thần chân
thật. Đây là điều rất quan trọng.
Vậy ta phải làm
người thông đạt, có bổn phận t́m ư nghĩa của cặp
phạm trù “hữu-vô” nơi “tiểu vũ trụ” này. Mượn
“hữu” t́m “vô”, lấy “hư” rơ “thật”. Nhờ xác thân
bồi dưỡng tinh thần. Khi rơ được nơi ta, hiểu ta
(là tri) rồi phải (hành) cho đủ lẽ (tri-hành) mới
thực dụng.
Thân thể ta theo
quan điểm Đông phương bao gồm:
-
Đầu: Thần-sức nóng, ánh sáng
-
Ngực: Khí-không khí
-
Bụng: Tinh-nước
Thân ta giống như
ngọn đèn. Dưới bụng là dầu, trên đầu là lửa. Ở
giữa là không khí. Nếu thiếu một trong ba yếu tố
trên sẽ mất tác dụng, không có lợi ích chi. Hữu
thể vô dụng, đèn không cháy, máy không chạy, con
người phải chết. Tuy một mà ba, tuy ba mà một là
như thế.
Hiểu biết nơi ḿnh
cho thấu đáo, rồi lo sửa chữa chỗ hư, tô bồi chỗ
khuyết cho đủ đầy, khang kiện. Đây là đường lối
tốt đẹp nhất, để con người thăng tiến phát triển.
Nhưng tu sửa bằng cách nào, bồi dưỡng ra sao? Khi
ta không có một phương pháp hữu hiệu, khó mong
thành đạt, chỉ lănh lấy thất bại. Vả lại thân ta
là một bộ máy tinh vi hoàn hảo, ta không thể xem
thường hoặc sử dụng bừa băi, đem thí nghiệm cái
này, chế biến cái kia, đến khi hư rồi làm sao sửa
chữa được. Chính ta tự gây hại cho ta.
Lại có một số người
thích luyện pháp hành thiền, mong có
“thần thông phép lạ”. Họ thấy đâu theo đó, hành
rất nhiều phương pháp, rốt rồi chẳng có lợi ích
chi. “Đa sự hư bệnh”; càng hành càng hao, càng
trau càng hủy hoại, bởi không đúng phương pháp chỉ
chuốc họa vào thân.
Chỉ có một phương
pháp tốt nhất là kết hợp âm-dương, khởi
động máy linh để cho thiên cơ vận chuyển,
không c̣n nằm yên
một chỗ.
Cơ thể con người là
một bộ máy tinh vi hoàn hảo, do ta gây dựng, ráp
nối đầy đủ các bộ phận,
ăn khớp với nhau,
sẵn sàng cho nổ
máy.
Miệng là chỗ tiếp thu
nhiên liệu, tùy theo phẩm chất tốt hay xấu, tinh
hay thô, để sử dụng phù hợp với “máy” của ḿnh,
chọn lựa. Thức ăn chính yếu cần thiết, càng tinh
khiết nhẹ nhàng th́ máy hoạt động càng linh diệu,
tinh xảo. Ta dùng nhiên liệu bừa băi th́ máy không
chạy, lại gây tác hại. Thực hành cực thân, phí
sức. Rốt cuộc rồi chẳng có kết quả chi, không đạt
như điều mong muốn.
V́ vậy, phẩm chất của
nhiên liệu góp phần quan trọng cho việc “khởi
động” này.
Mắt, tai, mũi, miệng
là những mấu chốt quan trọng trong bộ máy liên lạc
chặt chẽ từ ngoài vào trong sử dụng ánh sáng,
âm thanh, không khí.
Chân, tay kết hợp
đúng nơi, đúng chỗ ăn khớp với nhau. Chúng giống
như các bộ phận của chiếc máy. Hoạt động lên xuống
đúng độ và đồng bộ, tṛn ṿng, luân chuyển.
Mũi tiếp nhận luồng
hơi đi qua cuống họng. Không khí được hâm nóng,
hấp kỹ, xuống đến bao tử. Ở đây thần-khí giao ḥa
phát nổ, “máy chạy” lên xuống nhịp nhàng. Hơi được
bơm vào ruột, lọc lược, khử trược, lưu thanh.
Dưỡng khí được hấp thụ, theo máu cung cấp cho tế
bào nuôi cả châu thân. Đồng thời các lỗ chân lông
theo cặn bă thải mồ hôi ra ngoài.
Vận hành cho “máy
chạy” để phục hồi bản thân, cung cấp sự sống và sự
sáng cho con người.
-
“Động” để gây dựng, tích lũy báu vật.
-
“Tĩnh”
để ứng dụng phát sinh ánh sáng. Thể và dụng tương
đồng, làm nhiều hưởng nhiều,
không làm không
hưởng là lẻ đương nhiên.
Nếu ta gia công thực
hiện, cố gắng, kiên tŕ, kiến tạo bộ máy, th́ cần
phải có thời gian mới hoàn chỉnh được;
từ thô sơ đến tân
kỳ, thăng tiến măi.
Đó là ứng dụng “cơ
Động-Tĩnh” sinh điện hóa ánh sáng.
Cơ “Động-Tĩnh” củaBửu
pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi
phù hợp với chân cơ của máy tạo, giúp cho con
người hoàn hảo, thân thể tráng kiện, tinh thần
sáng suốt, thực hiện đời sống an vui, hạnh phúc.
CON NGƯỜI PHẢI
CẦN ĐẾN Bửu
pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi
A. Con người theo
quan niệm Đông phương
B. Môi trường sống
chung quanh con người
C. Ngăn ngừa bệnh
tật
A. Con người
theo quan niệm Đông Phương
Thân ta là một kho
tàng báu vật, đầy đủ tất cả, giống như
“đại vũ trụ” bên
ngoài, thu hẹp lại gọi là “tiểu vũ trụ”.
-
Trời có: Nhật-Nguyệt-Tinh
-
Đất có: Thủy-Hỏa-Phong
-
Người có: Tinh-Khí-Thần
Ba món báu, ta cần
phải bảo trọng, không để cho hao hụt, phung phí
một cách bừa băi. Rồi đến lúc khánh tận, mất hết
tất cả, không c̣n cách nào gây dựng lại, thật đáng
tiếc!
Ta đi ngay vào
nguồn cội, để rơ nguyên nhân, gây tác hại phá hoại
kho báu của ḿnh.
Con người sống ở
trên đời bị ngoại cảnh chi phối. Tâm phóng ngoại,
thần trí nương theo các cửa đi ra hồng trần, khiến
cho hao thần mất sáng, trí nhớ lu mờ, thần lực suy
yếu.
Tai
nghe lời ngon tiếng ngọt.
Mũi
ngửi mùi hương thơm tho kích thích.
Lưỡi nếm vị đời ham
muốn.
Thân tiếp
xúc, dựa kề da mát thịt mềm. Ôi! biết bao điều hấp
dẫn, khiến ta không tự chủ được, phóng ngoại thể
trần, tiêu hao “điện năng”.
Bởi ngũ quan
là các cửa hướng ngoại, là chỗ đi ra, nơi tiêu hao
năng lượng nên khi đă rơ nguy hại hủy hoại báu
linh th́ một số người hăi kinh lo sợ, coi đó là
chướng ngại. Lúc đó, ngũ quan trở thành
ngũ quỷ quấy phá vô chừng. Họ dựng phép
thế gian trấn áp giải trừ bằng đường lối khổ hạnh:
bế ngũ quan (bịt mặt, lắp tai, bịt
miệng, tịnh khẩu, đứng một chân) để cho thân xác
và các giác quan không c̣n đủ năng lực đ̣i hỏi, họ
dễ bề sai khiến. Nhưng việc làm này chẳng đem lại
lợi ích chi cho việc tu sửa, bởi họ không làm chủ
được các giác quan, lại bị chúng nó “sai khiến”
măi.
Đối với người thực
hành Bửu pháp Chiếu Minh Tam
Thanh Vô Vi này phải đi
ngược lại. Cần phải biết cách điều chỉnh giác
quan, coi ngũ quan là những “tôi hiền,
tṛ ngoan”, “nhân viên đắc lực” giúp sức gây dựng
lại “kinh tế” bản thân, là sức khỏe và tinh thần.
Ngũ khí ẩn
tàng trong ngũ tạng, ứng hiện ra ngũ quan
là ngũ thức. Nhăn thức (mắt
thấy); nhĩ thức (tai nghe); tỷ thức
(mũi ngửi), thiệt thức (lưỡi liếm), thân
thức (thân tiếp xúc). Ta phải chuyển thức
về trí, để tạo tác trí tuệ, bằng cách đem ánh sáng
soi rọi vào trong như khi ngồi thiền
(mắt khép lại, nửa kín nửa hở, mắt nh́n vào trong,
tai nghe vào trong, lưỡi liếm vào trong, thở hấp
hô đúng cách). Ngũ khí giao ḥa qui kết,
trở thành nhất khí tiên thiên, dưỡng
nuôi tinh thần của ta. Chính nhờ đó, ngũ quan
trở thành ngũ hổ tướng oai nghiêm, trấn giữ bờ
cơi, cho đấng quân vương ngự trị đất nước thanh
b́nh, cho tâm thanh tịnh, an vui, sức khỏe dồi
dào, tinh thần sung măn.
Ta t́m hiểu lư của
trời đất, t́nh của vạn vật, rơ được ṿng luân
chuyển của “bộ máy”, trọn ṿng liên kết có ra đi
và trở về. Theo quan điểm Đông phương th́ người ta
được sinh ra trước tiên là cái đầu. Đầu “tṛn”
tượng trưng cho “thái cực”, trung tâm điều khiển
hệ thần kinh. Đầu gồm có cái mặt, mắt, tai, mũi,
miệng. Kế tiếp đến hai tay (lưỡng nghi); ngực chứa
khí rồi đến hai chân (tứ tượng). Bụng chứa tinh.
Ta có thể h́nh dung 2 quá tŕnh:
-
Đi ra: từ tṛn ra vuông
Thần ra tinh
Người thực
hành Bửu pháp Chiếu Minh Tam
Thanh Vô Vi phải chuyển
ngược lại.
-
Trở về: từ vuông thành tṛn
Tinh hóa thần
“Tinh qui thần”, ngọn
đèn tinh thần tỏ rạng. Ví như càng có nhiều dầu
th́ đèn càng sáng. Khi dồi dào sung măn, con người
cảm thấy sảng khoái, hưng phấn, yêu đời, tinh thần
cởi mở, vui vẻ. Quả là “thần dược” giải khổ ban
vui.
Do đó phương pháp
này rất cần thiết đem lại lợi ích thật sự cho đời
sống con người.
B. Môi trường sống chung
quanh con người
Người ta rất quan tâm
đến môi trường sống. Hiện nay, môi trường bị ô
nhiễm quá nhiều độc chất, từ thức ăn, thức uống,
đến không khí để thở, làm ảnh hưởng đến cơ thể con
người, sinh ra những bệnh tật kỳ lạ chưa có thuốc
điều trị hữu hiệu.
Đây là vấn đề hóc
búa khiến các nhà khoa học bận tâm, không ngừng
đưa ra những biện pháp để cố ngăn chặn “nguyên
nhân gây ô nhiễm môi trường” nhưng chưa có kết
quả. Từ hóa chất độc hại, thuốc trừ sâu rầy, nước
thải công nghiệp… Nhất là trong giai đoạn này,
thời đại công nghiệp phát triển, chế biến hóa chất
nhiều, sử dụng bừa băi, giải quyết nhất thời, có
lợi trước mắt làm ảnh hưởng tác hại lâu dài, ngấm
vào thức ăn, nước uống, cơ thể hấp thụ, tích tụ
chất độc, gây ra bệnh tật, mất sức khỏe rồi đưa
đến tử vong.
Trái đất, ngôi nhà
chung của chúng ta bị ô nhiễm đến độ báo động, tác
hại không lường, gây nguy hiểm cho con người và
vạn vật.
Điều cần giải
quyết trước tiên cho sự sống là phải t́m mọi cách
để ngăn chặn sự ô nhiễm môi trường sống, khi đă
nhiễm độc rồi cần làm sao để thải ra khỏi cơ thể,
tránh gây tai biến, tử vong.
Chính v́ lư do
này, Bửu pháp Chiếu Minh Tam
Thanh Vô Vi có thể giải
quyết vấn đề, nhằm mục đích “thanh lọc cơ thể, tạo
sức đề kháng cao, chống lại bệnh tật, làm cho con
người khỏe mạnh hơn”.
Cũng có thể coi đây
là “phương thuốc” giúp con người tồn tại và sinh
sống. Với bửu pháp này, người thực hành có cái thở
“hấp hô” bằng bụng thở khí tiên thiên, không do
miệng mũi, dẫn vận khí lưu hành trong châu thân,
cung cấp dưỡng khí dồi dào đến nuôi tế bào; đưa
“trược khí”, độc chất theo mồ hôi và nước tiểu bài
tiết ra ngoài.
Đây là việc “khử
trược, lưu thanh” giải trừ ô nhiễm trong cơ thể,
giúp con người thích nghi với môi trường.
Một số người nhiễm
độc vào cơ thể (như thuốc trừ sâu chẳng hạn),
khiến họ cảm thấy bải hoải, khó chịu, nhức ḿnh
v.v…
Nhờ “vận khí”, chất
thuốc được tống ra ngoài theo các lỗ chân lông,
giải trừ chất độc. Sau đó họ cảm thấy dễ chịu và
thoải mái hơn.
Thực hành phương pháp
này thích hợp với khí hậu và thời tiết bên ngoài.
Nếu ở xứ lạnh, người ta cảm thấy không lạnh, bởi
v́ họ tạo ra sức nóng trong người (chân dương thần
hỏa). Họ cảm thấy hơi ấm lưu hành trong huyết
quản, tỏa khắp châu thân, tràn đầy sức sống, nên
rất thích hợp cho việc hành trau.
Đối với xứ nhiệt đới,
khí hậu nóng bức thực hành vận khí, luyện công, mồ
hôi đổ ra thật nhiều làm mát mẻ thịt da, họ cảm
thấy dễ chịu hơn.
Cảnh quang xung
quanh, từ ánh sáng, âm thanh đến không khí, họ
tiếp thu và hấp thụ cho việc hành công một cách
thuận lợi và thích nghi với mọi hoàn cảnh.
Con người nhờ tập và
luyện sẽ có khả năng chuyển hóa mọi chướng ngại
khó khăn trở thành thích nghi, thuận lợi cho bản
thân.
C. Ngăn
ngừa bệnh tật
Thực hành
để có thân thể tráng kiện, chịu đựng dẻo dai và
sức đề kháng cao, chống lại bệnh tật, cố lo giữ
ǵn sức khỏe ban đầu là điều thiết thực nhất.
Với nhiệm vụ ngăn
ngừa bệnh tật, con người phải hiểu biết nơi ḿnh
một cách rơ ràng xem yếu kém như thế nào? mạnh
khỏe ra sao? Không nên ỷ lại phí sức, tiêu hao
năng lực một cách bừa băi, đến lúc mất lực, kiệt
sức, làm sao có thể chịu đựng với bao bệnh tật
phát sinh sẵn sàng đến tấn công bất cứ lúc nào.
Giống như “trận chiến vô h́nh đang ŕnh rập và xảy
ra”, ta phải dự báo trước để đề pḥng và chuẩn bị
khả năng chống chọi lại mọi nguyên nhân gây tác
hại đến sức khỏe của ḿnh.
Chính đây là phương
pháp bảo vệ bản thân một cách hữu hiệu, đầy đủ sức
khỏe để hoạt động thích nghi với cuộc sống hàng
ngày
“ngừa bệnh hơn trị
bệnh”.
Trước tiên ta phải
cũng cố, gây dựng sức khỏe của ḿnh như một cuộc
“đầu tư” lớn lao thiết thực cho bản thân khỏi bị
ngoại lực chi phối, phá hoại gia tài sức khỏe của
ta.
Ba món báu vật
“Tinh-Khí-Thần”, nếu thiếu một, cơ thể trở nên bải
hoải, yếu đuối, sức khỏe suy kiệt, giống như đèn
hết dầu, máy không nhiên liệu, chẳng c̣n hữu dụng.
V́ vậy, việc gây dựng
và bảo vệ sức khỏe phải cùng đi song song mới đem
lại hiệu quả, sức khỏe tiến tăng, con người khỏe
mạnh.
Để thực hành Bửu
pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi
này trước tiên là phải chú ư đến động tác “hai
chân”, ráp nối đúng vị trí ở mắt cá, vùng kích
thích bộ phận sinh dục. Động tác lên xuống để tạo
“Tinh”, nếu tinh bị hao hụt sẽ hồi phục lại. V́
vậy, những người liệt dương, lănh cảm hoặc già
yếu, hao tinh kiệt sức, hành công một thời gian sẽ
có hiệu quả, lại tràn đầy sung măn “phản lăo hoàn
đồng”, không c̣n là vấn đề khó khăn. Các tuyến nội
tiết của nam và buồng trứng của nữ hoạt động điều
ḥa. Nhất là đôi chân không bị bại liệt. Động tác
hai tay “ra vào”, hấp hô đúng cách, vận khí điều
ḥa ngũ tạng, thông kinh mạch, mở khai huyệt đạo,
khí huyết lưu thông dễ dàng. Dưỡng khí cung cấp
dồi dào cho tất cả các tế bào trong châu thân, th́
da mặt hồng hào, mịn màng, tươi mát. Sự chuyển vận
khí này làm hết các bệnh về da và đường hô hấp,
như phổi, suyễn, tiếng nói âm vang do khí công nội
lực, con người sống động và linh hoạt, ít khi mệt
mỏi.
Đến bộ phận đầu năo
điều khiển ngũ quan: mắt, tai, mũi,
miệng, chuyển hóa qui hồi, ngũ khí gom
về, tạo tác sự sáng, thần lực sung măn, thần quang
tỏ rạng vững vàng.
Việc chà xát mặt và
xoa tán bụng sẽ kích thích các bộ phận ngũ tạng
trong cơ thể, phục hồi chức năng, không bị bế tắc
hoặc ngưng trệ, hoạt động ăn khớp với nhau.
Chính nhờ thực hành
phương pháp này, sức lực gia tăng, tinh thần sáng
suốt, chịu đựng dẻo dai với sức đề kháng cao,
chống lại bệnh liệt kháng, làm mất hết sinh lực.
Với hiệu năng ngăn
ngừa và trị bệnh, phương pháp bồi dưỡng sức
khỏe và tinh thần gắn liền với cuộc sống,
trở nên không thể thiếu. Đó là điều đă được thực
tế chứng minh.
PHƯƠNG PHÁP TIẾN
HÀNH
A. Cấp độ bồi dưỡng
I.
Bồi dưỡng cấp I
II.
Bồi dưỡng cấp II
III.
Bồi dưỡng cấp III
B. Phương tiện phụ
trợ thực hành
C. Thời điểm thực
hành
D. Động tác thực
hành
1.
Động tác chân
2.
Động tác tay
3.
Đầu
4.
Động tác xoa tán bụng
5.
Động tác xoa vuốt mặt
E. Giai đoạn an
tịnh để trưởng dưỡng tinh thần
A. Cấp độ bồi
dưỡng
Bửu pháp Chiếu Minh Tam
Thanh Vô Vi có ba cấp
tùy theo khả năng, hoàn cảnh của từng người để lựa
chọn mức độ hành trau, hoặc thấp hoặc cao, cho phù
hợp với hoàn cảnh của ḿnh rồi dần dần thăng tiến
lên nữa.
I. Bồi dưỡng
cấp I
Người thực hành
phương pháp Bửu pháp Chiếu Minh Tam
Thanh Vô Vi sơ thiền thời gian lúc đầu gọi
là cấpI phải hội
đủ điều kiện:
1. Dùng
đạm thực vật 10 ngày trong một tháng (không có
trứng, sữa, bơ, bánh có sữa)
2. Được
sinh hoạt vợ chồng
II. Bửu
pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi sơ thiền
thời gian sau là cấpII
Người thực hành Bửu
pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi sơ thiền
thời gian kế tiếp gọi là cấpII
phải hội đủ điều kiện:
1. Dùng
thường xuyên toàn thức ăn đạm thực vật
2. Được
sinh hoạt vợ chồng
III. Bửu
pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi sơ thiền
thời gian lúc sau cùng gọi là cấpIII
Người thực hành
phương pháp bồi dưỡng cấp III phải hội đủ điều
kiện:
1. Dùng
thường xuyên thức ăn đạm thực vật
2. Không
được sinh hoạt vợ chồng, ngủ riêng, tuyệt dục
“nhiên liệu = Tinh : Sperma” này được dùng trong
việc đầu tư trí tuệ, tạo tác ánh sáng đi đến chỗ
viên thuầ. Đây là bửu pháp vận dụng Khí Hư Vô
(Prana = ĐẠO = Khí Hạo Nhiên = Thiên Khí Năng =
Thiên lực = Energy of God).
Bửu pháp phải áp dụng TU TÁNH và LUYỆN ĐẠO tức
Đời+Đạo song tu.
Ai muốn thoát Luân Hồi sanh tử, khỏi kiếp này và
luyện Thánh Thai, nuôi dưỡng Thánh Thai trưởng
thành tại Trung Điền (Huỳnh Đ́nh hay Trung
Cung), tập ngủ trên ghế dựa có vải bố đấu phải
cao
60 độ và phải trước 64 tuổi, v́ trong xác phàm
có 64 Hào Dương, mỗi 8 năm th́ mất 1 Hào, 8 năm
tuổi x 8 = 64 là hết Hào Dương, không thể luyện
Thánh Thai và Kim Thân được nên phải xin keo
thie Đức Thượng Đế Cao Đài quyết định cho keo
th́ phải hành Bá Nhựt (100 ngày) để khử trược
lưu thanh, xả hết ô uế mà thời gian c̣n ăn thịt
cá, phải được người chỉ cách tu (người chỉ kiểu)
nói cách công phu thế nào (khẩu khẩu tương
truyền). Đó là lúc mở đầu để hành tiếp là NHỨT
BỘ là pháp luân thường chuyển đúng Đại Châu
Thiên (c̣n cấp III chỉ hành Bán Châu Thiên, nên
không luyện Thánh Thai và Kim Thân được, ai có
đủ Tam Công mà khi già quá 64 tuổi chưa qua Nhứt
Bộ, cũng có ấn chứng khi qui liễu mở mắt trái,
nhưng chưa có Nhị Xác Thân nên lên Quả Cầu 67 tu
tiếp, chứ không vể Bạch Ngọc Kinh ( Niết Bàn =
Nirwana) được.
Ngài Chưởng Giáo Bùi Trí Dũng có nhận Thiên Thơ
Chiếu Triệu, v́ Chiếu Minh Giáo Ṭa được một
người Thụy Sĩ mời qua Zürich để thuyết giảng, có
người chỉ cách công phu, nhưng THẦY THƯỢNG ĐẾ
nhận Sắc Lệnh là phải về ngôi vị cũ, không được
dạy pháp tu tiệm tiến nữa, mà phải ch́ kiểu tu
tận độ nội kiếp này cho các nguyên nhân về ngôi
vị cũ, hiện nay trên thế giới, nhất là Châu Âu
c̣n nhiểu nguyên nhân (Tổng số từ Niết Bàn giáng
thế là 96 ức Tiên, Phật giáng thế mà ham mê trần
nên c̣n kẹt lại, chưa t́m bửu pháp, sau nằm 1975
th́ THẦY giao Cơ Phổ Độ cho lũ hổ mang nắm; Cơ
Tuyển Độ th́ chưa qui nguyên mà các àn mạnh ai
nấy tu, có nơi c̣n thiếu sót, THẦY giáng cơ mà
có nơi tin, có nơi không tin, có khi là mật đàn
nên không dám phổ biến, sợ bị ở tù. Duy chỉ có
Chiếu Minh Giáo Ṭa mới có pháp nhân truyền cách
tập vận động chứ không gọi là THIỀN, nên cuốn
sách nhỏ đă in do MTTQ sửa tựa, bỏ tựa Bửu
pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi mà sửa lại
là PPBDSKVTT mới được in. Tôi là Hà
Phước Thảo vào nói chuyện riêng
với ngài Chưởng Giáo Chiếu Minh Giáo
Ṭa và ngài có mời tôi lên Thiên Bàn
nhà của ngài Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh
có xin với Đức Ngô Minh Chiêu giao
việc chỉ pháp cho Châu Âu và cho biết
ngài sắp về THẦY, nhờ tôi mở Viện Đại
Học. Tôi có nói: Không thể mở tại đây
(CMGT) được mà chỉ online mà thôi, đưa
bửu pháp, thánh giáo từ Đàn Thanh (cũ,
xưa) chứ không phải thánh giáo do đàn
cơ tại CMGT. Về Vĩnh Long tôi mở xong
trang http://caodaigiaoly.free.fr/VDHCaoDai.html
cùng với HĐ Phổ An đưa thánh giáo
CMTTVV lên Internet, một tuần sau th́
HĐ Lê Văn Ngữ điện thoại cho biết CG
BTD đă qui Thiên, tôi qua dự đám tang,
chụp h́nh và mở rộng thêm cho trang
Web http://caodaigiaoly.free.fr/CHIEUMINHGIAOTOA.html
Bây giờ nhớ lại lời dặn của ngài CG
BTD là tôi nên chỉ kiểu cho ai tu Cấp
III mà chưa 64 tuổi, ai chịu tu Bá
Nhựt+Nhứt Bộ+ Nhị Bộ+ Tam Bộ th́ đến
nhà tôi hay ở nơi nào có Thiên Bàn
CMTTVV để xin keo th́ tôi chỉ kiểu,
đúng theo như thánh giáo THẦY giáng
tại Đàn TĐQN Sông Tiền.
Ngài CG BTD có dặn tôi nên chỉ kiểu
theo CMTTVV v́ tôi nói rằng tôi tu NHỊ
BỘ từ lâu rồi (1992) nên tôi chỉ cho
ai nếu chịu xin keo, nếu ai chưa muốn
tu để về Bạch Ngọc Kinh th́ chỉ cách
công phu theo 3 cấp (chỉ có Bán Châu
Thiên chứ chưa hành Pháp Luân Thường
Chuyển theo Đại Châu Thiên). Tôi có
hứa và nói O.K.
Khi về Đức Quốc có cụ già 80 tuổi (bà
Geda Huchthausen) đă ăn chay trường,
thiền theo cách hít thờ của Đại sư
Vivekadanda nh́n dưới rún ba phân mà
chưa có văn hỏa + vơ hỏa muốn tu
CMTTVV vận động tay chơn th́ tôi nói
quá trễ khi xin keo và bàn thờ khác
với thánh giá hay h́nh Phật!
Hai vị khác là Giám Đốc trong T.U.M,
Tiến sị kỹ sư, c̣n ăn mặn muốn tu, tôi
bảo về ăn chay, nhưng kiểm lại th́
trong bữa tiệc Tất Niên lại ăn mặn!
nên tôi từ chối không dạy thiền
Cấp I. cho đến khi về hưu th́ không có
người Đức nào học. Một người tại Texas
tôi có chỉ theo PLVVKHHBPP dù ăn chay
trường, nhưng chưa tuyệt dục và bận
làm nghề Nail rất đắc khách.
Tôi có hỏi CG BTD Tại sao anh để tựa
này (PPBDSKVTT) th́ Đạo Huynh CG BTD
nói lúc đầu đă đánh máy bản đưa nhà in
ở Hà Nội là Bửu pháp Chiếu Minh
Tam Thanh Vô Vi (BPCMTTVV).
CG BTD nói tiếp:"Nhờ anh Thảo sửa tựa
lại tựa BPCMTTVV nếu in ở nước Đức hay
Pháp". Tôi nói:"Ở Đức in sách đắt tiền
lắm, chỉ photocopy ít cho ai cần, vào
Internet th́ người ta tự in được!"
Riêng việc sửa Thiên Bàn từ cách trang
trí của cụ Bùi Hà Thanh tại sao anh
không để y mà sửa có thêm h́nh Phật và
h́nh Chúa Jesus nữa?
Huynh Dũng nói để cho chư linh mục và
chư tăng vào học thiền nữa! Thiên Chúa
Giáo không có thiền, c̣n Phật giáo th́
ngồi thiền bất động, bửu pháp của ḿnh
có văn hỏa, vơ hỏa như tập thể dục
vậy, hợp với khoa học và vô Thần.
Con người ai cũng
vậy, gồm có một phần thân thể (thân xác) và một
cái trí. Theo quan điểm Đông phương,
đó là một bộ máy
gồm nhị thể là xác và hồn.
Thân ta gồm có ngũ
quan và tay chân nguyên vẹn, đầy đủ yếu tố
vận hành là “một bộ máy hoàn hảo”.
Một số người không
may mắn bị thiếu sót một vài bộ phận như: mắt kém,
mũi hư, tai điếc, cụt tay, hoặc cụt chân hay mang
tật nguyền từ nhỏ, quyết chí hành trau vẫn có kết
quả nhất định, tuy không hoàn mỹ lắm nhưng có c̣n
hơn không.
V́ vậy ta phải
nương vào phương tiện sẵn có nơi ḿnh để khởi động
“cái máy” đang nằm im một chỗ.
Thêm vào đó nhiên
liệu cung cấp rất cần thiết. Cấp bậc thực hành
cao, đạm thực vật nhẹ nhàng tinh ba th́ “máy” sẽ
chạy điều ḥa mau. Máy tốt cần có nhiên liệu thật
tốt là lẽ đương nhiên.
V́ vậy, người thực
hành sẽ đạt kết quả theo yêu cầu, ư nguyện của
ḿnh.
Phần kế tiếp là
“tinh thần” phải không điên loạn mới tiếp thu được
sự chỉ dẫn,
để thực hiện phương
pháp bồi dưỡng sức khỏe và tinh thần.
Tất cả hai phương
tiện trên mặc dù nó có tiêu hao và yếu chăng nữa
sau khi thực hiện việc trau sửa sẽ được phục hồi
trở lại, lâu hay mau là tùy theo sự gia công tu
sửa và ư chí của ḿnh ít hay nhiều.
B. Phương
tiện phụ trợ thực hành
1. Một
cái áo choàng màu trắng tượng trưng cho sự
thanh bạch, gồm 4 mét vải nối với nhau thành h́nh
vuông. Ở ngay chính giữa xẻ chữ thập (+) để choàng
vào cổ. Công dụng của cái áo choàng này là giữ hơi
ấm, ngăn không cho gió xâm nhập vào khi hành
công-vận khí, mồ hôi tiết ra lỗ chân lông rất
nhiều. Ngoài ra cái áo choàng này để cử động thoải
mái, không thể cho ai bên ngoài thấy động tác,
trong khi thực hành cơ Động-Tĩnh (h́nh 1).
H́nh 1
2. Một
tấm nệm nhỏ năm tấc vuông, để ngồi cho êm
bàn tọa và giữ ấm ở phía dưới hạ chi, khi vận hành
khỏi bị trở ngại. Người thực hành cảm thấy dễ chịu
hơn.
3. Một
cây đèn nhỏ: khi thực hành ta vặn ngọn đèn
lu xuống, để cho vừa tầm mắt. Chính ta mượn đốm
lửa này để “gom thần” quy hướng nội tâm – “mượn
giả hành chân”, “chân hỏa”
tạo ra hơi ấm đượm
nhuần.
4. Một lư
hương: khi hành công vận khí nên đốt lên
một nén hương để cho mùi thơm phảng phất, gom thần
an trụ nơi đỉnh đầu, không c̣n phóng ngoại buông
lung nữa.
5. Một
đồng hồ: để biết thời gian. Khi vận hành
khởi động “máy linh” phải đúng giờ ấn định, không
được chểnh mảng giờ giấc hoặc bỏ sót. Bởi thời
gian là thước đo sức kiên tŕ, chịu đựng để rèn
tâm luyện trí, thân tâm quen dần, sau đó sẽ tự
động đúng thời gian ấn định.
6. Một
cái ghế: người hành trau tốt nhất nên ngồi
trên ghế cho vững vàng. Động tác thoải mái không
đụng chạm vật xung quanh, như vậy tâm không bị chi
phối, chân tay cử động lên xuống, ra vào
một cách nhịp nhàng đồng bộ với nhau (h́nh 2).
H́nh 2
Những phương tiện
trên đây ít tốn kém, người thực hành phải có đủ để
thực hiện đúng phương pháp bồi dưỡng sức khỏe
và tinh thần mới đạt kết quả khả quan.
C. Thời điểm
thực hành
Ta phải dành sẵn cho
ḿnh thời gian nghỉ ngơi trong một ngày và phải
biết lợi dụng để bồi dưỡng lại cái hao hụt năng
lượng do hoạt động gây ra, nhờ dưỡng khí nuôi các
tế bào đầy đủ sức sống và thải độc chất ra ngoài.
Khi sức khỏe phục
hồi, tinh thần thư thái, con người cảm thấy thoải
mái mới đạt hiệu năng lao động cao.
Thời điểm ấn định
luyện tập:
-
Sáng: từ 5 giờ đến 7 giờ
-
Trưa: từ 11 giờ đến 13 giờ
-
Chiều: từ 17 giờ đến 19 giờ
-
Tối: từ 23 giờ đến 1 giờ
Đây là những giờ
nghỉ ngơi, nên mọi người thực hành phương
pháp bồi dưỡng sức khỏe và tinh thần không
trở ngại cho công việc làm hàng ngày. Với quyết
tâm cao để phục vụ lợi ích cho bản thân về sức
khỏe và tinh thần, ta cần phải cố tâm thực hành.
Mới ban đầu phải giữ cho đúng giờ ấn định, qua một
thời gian trở thành thói quen, tự động tới giờ ta
biết thực hành một cách mau lẹ, đúng đắn. Thực ra
lúc đó “máy linh” của ta khởi động, ta phải hành
công để đáp ứng sự đ̣i hỏi, bồi dưỡng nhiên liệu,
dưỡng khí, là “thức ăn” chính yếu cũng như con trẻ
khát sữa đ̣i ăn. V́ vậy người thực hành cần phải
cung cấp đầy đủ để được thoải mái và sảng khoái.
Khi có một vài trường hợp bỏ sót, ta cảm thấy bứt
rứt, khó chịu vô cùng.
Thời gian lâu hay
mau tùy theo cấp bậc cao hay thấp của người thực
hành.
D. Động tác
thực hành
Vào đúng thời điểm
ấn định trong ngày, ta phải mang áo choàng thực
hành trau luyện; ta phải ngồi thẳng người trên ghế
có nệm và tâm giữ thanh tịnh. Đoạn khởi sự ráp nối
các bộ phận cho ăn khớp với nhau, đúng vị trí,
không sai lệch, từ chân tay đến đầu, dưới lên
trên, nghịch chuyển về nguồn (h́nh 3).
H́nh 3
1. Động tác
chân
Chân phải (thuộc âm)
ta kéo vào cách bụng dưới 5 phân, chân trái (thuộc
dương) đặt trên chân phải ở vùng mắt cá
đúng vị trí khu cảm giác kích thích bộ phận sinh
dục, theo h́nh chữ W. Động tác chân theo phương
pháp bồi dưỡng này có tác dụng “phục tinh” (h́nh
4).
H́nh 4a
H́nh 4b
Động tác “phục
tinh” khác hẳn cái “nhân dục” làm hao tinh, rơi
rớt ra ngoài. Khi tinh bị hao hụt chỉ cần hành
công trong thời gian ngắn, tinh đầy trở lại, sinh
lực phục hồi. Đây là động tác ở hạ chi để luyện
tinh.
2. Động tác
tay
Kế tiếp đến 2 tay,
bàn tay trái (thuộc dương) ngón tay ấn
vào phía dưới cùng của ngón áp út làm thành h́nh
ṿng tṛn (h́nh 5).
H́nh 5
Đoạn ngón cái của
bàn tay phải để vào ṿng tṛn đó như một cái trụ
cốt có thể xoay được, những ngón của bàn tay phải
nắm gọn những ngón của bàn tay trái c̣n lại (h́nh
6).
H́nh 6
Thực hiện “giao ḥa
ngũ khí”, “hiệp nhất âm dương”, gọi là “kiết quả”
Đoạn cái gu của bàn
tay trái để vào chấn thủy giữ cố định, không được
áp sát quá, cũng không được đưa ra ngoài, xong rồi
nhịp động tác đội tay “ra- vào” để luyện khí; ngũ
khí “ra- vào” xuất nhập đúng độ và đồng bộ,
hấp hô đúng cách khác hẳn với cách thở bằng miệng,
mũi b́nh thường.
Đường hơi từ dưới
rốn rút lên: “hấp” từ dưới bao tử đưa lên cuống
họng, âm vang nghe “rè rè” như tiếng ngáy; “hô”
nuốt hơi tưởng như xuống bao tử, sao cho tṛn ṿng
đều đặn, hết hơi này đến hơi khác một cách thong
thả trong thời gian động tác (h́nh 7).
H́nh 7a
H́nh 7b
Với khoa học ngày
nay, có thể áp dụng cho việc dạy này, nhờ máy ghi
tiếng thấy h́nh cùng một lúc; khi thực hành đạt
“đường hơi hấp hô” kết quả. Chính đó là cái ch́a
khóa nối liền tinh thần, chiếc cầu thông điệp “kết
âm dương” tóm thâu về một mối.
Đây c̣n là “thức ăn”
chủ yếu để bồi dưỡng sức khỏe và tinh thần. Dưỡng
khí phải được hâm nóng đúng cách để tiêu hóa mới
dễ dàng. Không nên hấp tấp, vội vàng, hơi chưa
nóng như cơm chưa chín ăn vào sẽ no hơi, śnh
bụng, không tiêu.
3. Đầu
Đến phần trên nơi mặt, người thực hành ngậm miệng
lại, lưỡi hơi cong lên trên ṿm họng; cắn chặt hai
hàm răng lại; lần lượt đến hai mắt không được mở
rộng, cũng không được nhắm lại, khép mắt nửa kín,
nửa hở, hơi sụp mí mắt; tưởng tượng có ngọn đèn
“đem” xuống phía dưới rốn, rồi “đem” ánh sáng soi
rọi bên trong.
Giờ đây tất cả các
mấu chốt của “cái máy” đă được ráp nối đúng
nơi đúng chỗ, bắt đầu khởi động hai chân nhịp đều
lên xuống, kích thích khu cảm giác tạo tác sinh
tinh, tinh lực dồi dào, sức sống gia tăng; chất
nước lạnh lẽo trước kia, do “tà tinh” giao cảm,
nay đă được hâm nóng, làm cho ấm áp;
trong nước có sức
nóng (thủy hỏa kư tế).
Người ốm yếu, trước
đây v́ mê muội phung phí của báu, nay đến lúc kiệt
tinh, lăo nhược, nhờ phương pháp bồi dưỡng này
phục hồi trở lại, sức khỏe tiến tăng, “phản lăo
hoàn đồng” dương tinh phát khởi, nguồn sống hồi
sinh. Một điều đáng chú ư là nhịp động của người
lớn tuổi phải phù hợp với sức lực của ḿnh, không
được thái quá hoặc bất cập, có như thế mới cảm
thấy sảng khoái, thoải mái được.
C̣n trẻ, nhiên liệu
c̣n nhiều hơn, cần phải có động tác mạnh. Đúng độ
nóng, nước bốc hơi bay lên, tự động biến hóa khinh
thanh thượng đỉnh, nghịch chuyển về nguồn. Chính nhịp
động hạ chi, điều ḥa tinh này, thiếu th́
được phục hồi, dư tự biến hóa, không hao chẳng
hụt, tràn đầy nhựa sống khiến con người cảm thấy
lâng lâng hưng phấn, yêu đời hơn.
Hai tay ở vị trí ấn
định, động tác “ra-vào”, “hấp hô” đúng cách, xuất
nhập đồng bộ với nhau. Ngũ khí giao ḥa,
lưu thông khắp châu thân, đến các bộ phận nuôi
dưỡng tế bào, kinh mạch khai mở, không c̣n bế tắc
ngăn trệ nữa. Chính nhờ khí lực dồi dào, sức khỏe
hàm dưỡng trong người, làm các bộ phận trong châu
thân hoạt động mạnh mẽ, khỏe khoắn, chịu đựng dẻo
dai. Nhờ có sự cung cấp đầy đủ dưỡng khí, máu đỏ
gia tăng, sắc mặt hồng hào, da thịt tươi mát. Đối
với năo bộ khí về óc sinh minh, khởi sinh trí tuệ,
người thực hành không c̣n bị bứt rứt, nhức đầu v́
thiếu dưỡng khí.
Đến bộ phận đầu năo,
trung tâm điều khiển mọi hoạt động trong châu
thân, hành công “gom thần” rất quan trọng, không
thể thờ ơ hoặc chểnh mảng bởi đây là sự việc chủ
yếu để “thắp sáng”
ngọn đèn tinh thần
của ta.
Người thực hành phải
khéo léo và cẩn thận giống như người đốt đèn “Ai
Da”, khi bơm dầu đúng mức qui định rồi, ta hăy nhẹ
tay mở khóa để hơi dầu bay lên gặp lửa đốt đỏ
“manchon” không c̣n đen nửa, chừng đó ngọn đèn
bừng sáng. Trong đầu ta cũng vậy, phải giữ cho an
tịnh, không có một ư niệm đen tối nào, các giác
quan hướng nội soi rọi vào trong để “gom thần”,
tạo lửa điện; mắt nh́n vào trong, tai nghe vào
trong, lưỡi nếm vào trong, bốn giác quan tiếp nhận
dưỡng khí (thần khí) giao ḥa, âm-dương
hiệp hội,đèn ḷng bừng sáng, thần quang tỏ rạng,
trí lực dồi dào, huệ tâm phát, trực giác khai; cái
sáng càng ngày càng được bồi tô thêm măi, phát huy
đến cao độ, soi thông cả thảy, thấu rơ chân thật.
Trong phương
pháp bồi dưỡng sức khỏe và tinh thần này,
vận hành các bộ phận trong cơ thể có phân ra ba
đoạn: luyện tinh, luyện khí, luyện thần.
Nhưng chúng phải xảy ra cùng một lúc, đúng độ và
đồng bộ, không sớm cũng không muộn mới hữu dụng.
Trên đây là các động
tác của các bộ phận thân thể giống như “cái máy”
đang vận hành. Mỗi phần đều quan trọng không thể
thiếu được, lên xuống điều ḥa ăn khớp với nhau,
nhiên liệu đầy đủ th́ “máy chạy” thoải mái, không
trở ngại chi cả, sẽ khởi ra hiệu dụng thật không
ngờ.
4. Động tác
xoa tán bụng
Sau khi thành công
động tác “phục tinh”, “dẫn khí”, “gom thần” khoảng
15 phút (hiệp một), ta vẫn ở tư thế cũ rồi lấy tay
phải ra đặt ở bụng dưới, phía bên trái, xoa theo
chiều kim đồng hồ 36 ṿng, lấy cái rốn làm trung
tâm, ṿng cuối cùng ngừng lại ở phía dưới phía bên
phải, từ đây xoay ngược chiều kim đồng hồ 24 ṿng,
ṿng cuối cùng ngừng lại ở vị trí đầu tiên nơi
bụng dưới bên trái (h́nh 8).
H́nh
8a
H́nh 8b
5. Động tác
xoa vuốt mặt
Xong rồi đến động
tác xoa mặt, cái mặt phân ra làm ba phần: ngang
miệng, ngang mũi và ngang mắt, ta bắt đầu xoa từ
dưới lên trên. Hai bàn tay chà thật nóng, vuốt hai
bên miệng 6 cái; chà thật nóng lại vuốt 2 bên mũi
6 cái; sau đó chà thật nóng lại áp vào mắt vuốt ra
hai bên trán và đầu 6 cái, sau đó để chân trái gác
lên chân phải, tay trái trên tay phải, nghỉ 2 phút
(h́nh 9a và 9b).
H́nh
9a
H́nh
9b
H́nh 9c
E. Giai đoạn
an tịnh để trưởng dưỡng tinh thần
Giai đoạn này gồm 3
cấp. Tư thế: Ta nằm nghiêng về phía bên tay phải,
chân trái cong lên, để trên chân phải ngay vùng
mắt cá, ngón tay cái trái ấn vào ngón áp út, áp
vào bàn tay phải, đoạn áp sát vào vành tai bên
phải, mắt lim dim hướng về ánh đèn để “gom thần” 5
phút (cấp I) – H́nh 10.
Động tác 2 hiệp tán
bụng và xoa mặt; an tịnh trưởng dưỡng tinh thần 10
phút là hoàn tất một thời gian trau luyện của
phương pháp bồi dưỡng cấp II.
Đến với cấp III: thời gian trau
luyện lâu hơn sẽ do giáo sư tâm pháp hướng dẫn
sau
Video
cách công phu:
Cách
công phu: xin bấm vào Link đưới đây xem, nhưng phải ăn
chay trường và phải đến
Chiếu Minh Giáo Toà qú trước Thiên Bàn dâng Sớ, đọc
và đốt Sớ, sau đó có người chỉ rơ từng chi tiết
nhớ kỹ, về nhà hành, chứ không được xem Video này và
tự ư hành.
Quí vị nào muốn học thiền th́ đừng nghe âm thanh trong
Video này mà về Việt Nam, đến CMGT hay gặp các Giáo sư
Tâm Pháp hỏi cử động ra sao?
Riêng cho chư hành giả thiền theo
CMTTVV như các Đàn CMTTVV tại Việt Nam,
Pháp, Đức, Canada, Hoa-kỳ, Úc...th́ việc chỉ kiểu
chỉ có 2 người, nói cách nào, nghe và nhớ, không
được biên chép, đến ngày 13 Âm lịch mỗi tháng th́
các hành giả cùng nhau chỉnh về cách ngồi, thẳng
lưng, nh́n ở đâu, vận động tay và chân như thế
nao? có đúng không? Rán giữ như thế suốt đời, được
chỉ sao th́ hành vậy cho đúng. Không nên thắc mắc
nhiều nữa, v́ trên Internet có đủ các Thư Viện,
facebook, Viện Đại Học Cao Đài có thể đọc cho hiểu
thêm, c̣n ai học lớp ba th́ cứ y cựu pháp mà h́nh
gọi là "tu dốt" vậy mà khi qui liễu sẽ có ấn
chứng, sau 100 ngày có nơi nào đâng Sớ, cầu cơ xin
THẦY cho người mới qui liễu về cơ để biết đă về
Bạch Ngọc Kinh, ngôi vị ǵ? (Tiên, Đại Tiên, Chơn
Nhơn) để có đúc tin, rán cả đời công phu, công quả
trả nợ tiền khiên, công tŕnh dài dặn nhất là tu
TÁNH tốt, ngũ đức, đọc Kinh Cảm Ứng hhằng ngày vào
buổi sáng. Như vậy chắc chắn 100% đắc Đạo, v́ Đức
Ngô (CĐTÔNTÔ) có hứa, nếu hành BPCMTTVV đúng y mà
khi chết (qui liễu) không đắc th́ THẦY chịu trách
nhiệm!
Tại Chiếu Minh Giáo Ṭa khi qui liễu th́ chôn nằm,
v́ đa số đă học với CG BTD hay BLC ở 3 cấp, khi ăn
chay trường, chưa 64 tuổi mà quyết định tu giải
thoát nội kiếp th́ phải xin keo tu Bá Nhựt+Nhứt
Bộ+Nhị Bộ+Tam Bộ th́ chắc chắn đắc, nếu dễ duôi,
cứ hành dễ cho khoẻ, không chịu thượng tượng mà
chỉ có ngọn đèn nhỏ, ngồi trong mùng công phu th́
hy vọng lên Quả Cầu 67 sống sung sướng tu tiếp
theo BPCMTTVV nua, nhưng có ai biết ra sao?
Hiện nay Hạ Nguơn mạt kiếp, chính Đức Diêu Tŕ Kim
Mẫu tiếp theo THẦY (CHA TRỜI) c̣n dạy cho phái nữ
rán tu (đọc cuốn Khuyến Nữ Hồi Tâm Kinh) và nghe
trang Mẹ
Maria dạy cho một thanh niên Công Giáo ở Thủ Đức
là đến năm 2.017 cả thế giới tiêu tan cả (Tận
Thế), ai ăn
chay trường, tu hành theo BPCMTTVV th́ sống
sót để lập đời Thượng Nguơn Thánh Đức (10% survive
= überlebend, không bị phóng xạ nguyên tử làm bệnh
hay chết).